Hôm nay,  

Tản Mạn về thi phẩm Xuân Vẫn Tha Hương của Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh

28/01/202316:53:00(Xem: 6446)

Tản Mạn về thi phẩm Xuân Vẫn Tha Hương của Nữ Sĩ  Minh Đức Hoài Trinh 

 

 

* Lê Ngọc Châu

 

 

Chúng ta đều rõ là Âu, Mỹ đón Tết Dương Lịch mỗi năm vào ngày 01.01.

Hằng năm, người Á Châu nói chung và người Việt Nam nói riêng đều đón Tết theo Âm Lịch.

Như vậy người Á Chân có dịp mừng Năm Mới đến hai lần.

 

Chúng ta biết rồi, ngay từ khi còn bé cho đến lúc già chắc chắn không ai mà không biết đến Tết. Khác một điểm là mỗi miền của Việt Nam tổ chức Tết theo phong tục của điạ phương điển hình qua Mâm Cổ Cúng Tết.

 

Trước khi giới thiệu về Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh và tác phẩm của bà cho tôi được mở ngoặc ở đây, đề cập sơ vài điểm chính về Mâm Cổ Tết của Ba Miền Nam-Trung-Bắc Việt Nam.

 

Đặc trưng Miền Bắc trên Mâm Cỗ Tết thì có bánh chưng, Miên Nam có bánh Tét và Miền Trung Việt Nam thuần túy với Mâm cỗ ngày đơn giản, chân thành.

 

Mâm cỗ ngày Mùng Một Tết của người miền Bắc gồm có: Bánh chưng, dưa hành, thịt gà luộc, thịt lợn (heo) chiên, thịt đông, miến xào, chả giò, nem chua, canh khoai tây.

 

Mâm cỗ ngày Tết của người miền Trung gồm có những món ăn cơ bản mỗi thứ một ít, được bày trên chiếc mâm tròn thường thấy, bao gồm

 

  • Gà luộc, Thịt heo
  • Bánh tét, Nem chua, Dưa hành
  • Ram cuốn (Ghé Đà Nẵng/Quảng Nam, bên cạnh những đặc sản Mỳ Quảng, bún mắm, bánh tráng cuốn thịt heo, ram cuốn cải là món ăn xuất sắc không thể bỏ qua),…

 

Món ăn không thể nào không kể tên trong mâm cỗ cúng Tết ở miền Nam là thịt kho trứng. Ngoài ra cũng phải kể đến món canh khổ qua nhồi thịt với quan niệm cho rằng mọi sự khổ ải sẽ đều qua đi để đón chào một năm mới hạnh phúc hơn.

Ngoài 2 (hai) món ăn trên người miền Nam còn chuẩn bị thêm

 

 

Riêng Bánh Tét ở miền Nam rất đa dạng về nhân, có bánh Tét nhân đậu xanh, đậu đen, chuối, dừa, … Một số gia đình cũng chuẩn bị thêm chả lụa, giò thủ, lạp xưởng nếu thích.

 

Mâm cỗ, mâm cúng Tết của 3 miền Bắc, Trung và Nam của Việt Nam tuy có nhiều điểm khác nhau trong các món ăn, cách trang bày cho đến những nguyên tắc, ý nghĩa của nó. Tuy nhiên cho dù thế nào đi chăng nữa thì những mâm cỗ của Ba Miền Việt Nam nói chung đều phản ảnh những giá trị thiêng liêng, sâu sắc của nền văn hóa và tín ngưỡng của người Việt Nam.

 

Nói chung sự khác biệt về "Mâm Cổ" cúng Tết của mỗi miền vì nhiều lý do theo Phong Tục, Tập Quán của miền đó nhưng vẫn không thể thiếu các món chính trong các mâm cỗ ngày Tết là Bánh chưng, Dưa hành, Thịt gà luộc, Xôi gấc, Nộm, Nem rán.

 

Trước khi đề cập chi tiết hơn về bài thơ tôi mạn phép giới thiệu sơ về Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh (NS_MĐHT), người mà tôi tuy viết lách chỉ là nghiệp dư từ hơn 20 năm qua đã hân hạnh và tình cờ được quen biết ..

 

Theo internet thì tác giả Minh Đức Hoài Trinh (MĐHT) có tên khai sinh là Võ Thị Hoài Trinh, sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930. Bà là một nữ văn sĩ, trước 1975 từng là phóng viên chiến trường thời Việt Nam Cộng Hòa. Bà còn dùng một số bút hiệu khác như Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh và Bằng Cử.

 

MĐHT sinh ra ở Huế trong gia đình danh gia vọng tộc, dòng dõi Xuân Hòa hầu Võ Liêm,  Thượng thư bộ Lễ dưới hai triều Hoàng đế Khải ĐịnhBảo Đại nhà Nguyễn. Thân phụ là Tổng đốc tỉnh Quảng Nam. Năm 15 tuổi, bà Trinh tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp một thời gian ngắn rồi về Huế tiếp tục học.

 

blank

 

 

Năm 1964, bà sang Pháp du học ngành báo chíHán văn tại trường ngôn ngữ Á Đông La Sorbonne ở Paris. Sau khi ra trường, kể từ năm 1967 bà làm phóng viên cho đài truyền hình ORTF (Office de Radiodiffusion Télévision Française) của Pháp. Bà cũng từng là phóng viên chiến trường trong chiến tranh Việt Nam và được cử theo dõi tường trình Hòa đàm Paris vào năm 1972 hầu chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình Việt Nam.

Năm 1973, bà sang Trung Đông theo dõi chiến tranh Yom Kippur.

Năm 1974, bà trở về Sài Gòn và giảng dạy khoa báo chí ở Đại học Vạn Hạnh.

 

* Đóng góp văn học

 

Sáng tác của bà Minh Đức Hoài Trinh thuộc nhiều thể loại như thơ, truyện ngắn, truyện dài. Sau năm 1975, bà trở lại Pháp và cho xuất bản tạp chí Hồn Việt Nam. Bà cũng sáng lập Hội Văn bút Việt Nam Hải ngoại và ra sức vận động để hội được công nhận tư cách hội viên Hội Văn bút Quốc tế vào năm 1979 tại Rio de Janeiro, Brasil.

Năm 1980, bà sang Hoa Kỳ định cư tại quận Cam, California.

 

Năm 2017, bà qua đời tại thành phố Huntington Beach, California.

 

* Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh đã xuất bản những  tác phẩm

 

  • Lang thang (năm 1960); Thư sinh (1962); Bơ vơ (1964); Hắn (1964); (1964)
  • Thiên nga (1965); Hai gốc cây (1966); Sám hối (1967)
  • Tử địa (1973): Trà thất (1974); Bài thơ cho ai?, năm 1974.
  • Dòng mưa trích lịch, Bruxelles (năm 1976)
  • 2014, Chính Khí Của Người Cầm Bút do Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ thực hiện, Nhân Ảnh xuất bản.

Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh mất ngày 19 tháng 6 năm 2017.

             

Ở trên là tóm lược về tiểu sử và tác phẩm của Bà Minh Đức Hoài Trinh.

 

Cho tôi mở ngoặc thêm ở đây chút xíu là năm 2015 tôi hân hạnh được làm quen với Cố Thi-Văn Sĩ Minh Đức Hoài Trinh khi nhận được quyển sách Chính Khí Của Người Cầm Bút do bà gửi tặng. Cũng xin được nói thêm, Bà Minh Đức Hoài Trinh đã cùng với hai ông Trần Tam Tiệp và Nguyên Sa Trần Bích Lan sáng lập ra Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (Founder of Vietnamese Abroad Pen Center).

 

Năm 1978-1979 bà Minh Đức Hoài Trinh là Chủ tịch của Pen VietNam.

 

 

Bây giờ tôi mạn phép thử đưa "Thi Phẩm của Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh lên bàn mổ và xin mạo muội giới thiệu ngắn gọn cùng Quý độc giả. Chỉ xin một điều mong Quý vị và nhất là những thi sĩ hoan hỷ cho mọi sự nếu tôi không hay chưa diễn đạt trọn vẹn ý thơ.

 

Tiêu đề "Xuân Vẫn Tha Hương" của bài thơ cũng đủ để chúng ta biêt hay hình dung ra ngay được hoàn cảnh của chính Thi Sĩ tác giả cũng như của một người thật sự bỏ nước ra đi vì hoàn cảnh để tị nạn cộng sản.

 

Mở đầu thi phẩm, MĐHT đã xác định rõ ràng thân phận của chính mình (và có lẽ của nhiều người Việt Nam khác cùng cảnh ngộ, trong đó có người viết kể từ khi tị nạn chính trị ở Đức sau 1975!):

 

          Thế mà con mẹ vẫn tha hương,

 

Tác giả đã phác họa cảnh sống của mình nơi xứ người với bao nỗi nhớ thương:


          Xa mẹ, xa nhà, xa mến thương,

 

Sự khác biệt về Đêm Giao Thừa của quê hương Việt Nam và quê hương mới được thu gọn đơn giản và dễ hiểu qua hai câu thơ sau đây:


          Trừ tịch đêm nào hồng tiếng pháo,
          Nơi nầy chỉ thấy tuyết hòa sương.

 

Để rồi tác giả nhớ lại khung cảnh ngày xưa khi còn ở quê nhà mà có lẽ nhiều người Việt Nam đều đã trải qua trưóc 1975 :

 

          Đêm nay hồi tưởng đến đêm xưa,
          Ngây ngất đâu mùi hương thoáng đưa,
          Bóng Mẹ cúi bày mâm cỗ cúng,
          Khấn Ông Bà đến để say sưa.

 

Riêng những gia đình nào có con cái "vượt biên, vượt biển" tìm Tự Do sau 1975 có lẽ hiểu rõ hơn ai hết khi thiếu vắng hình bóng người thân trong gia đình:

 

          Mẹ bảo ông bà vẫn hỏi con,
          Rằng Tr. sao nó vắng nhà luôn,

 

Tác giả hồi tưởng lại cảnh xa xưa khi còn cấp sách đến trường mà chúng ta cũng đã trải qua:

 

          Mẹ có nhớ thưa con cố học,
          Bao giờ thi đỗ mới hồi hương.

 

Đặc biệt khung cảnh lúc gần Tết mà tác giả thi sĩ không quên được, còn ghi nhớ:

 

          Bánh chưng mẹ nấu có nhiều không?
          Nồi bánh chưng này ai thức trông?
          Mẹ có gói thêm đòn bánh nhỏ?
          Để cho con út mẹ vòi công . . .

 

Để rồi, tác giả diễn tả hoàn cảnh của mình (và có lẽ cũng là của những người Việt Nam đồng cảnh ngộ), đơn giản nhưng trung thật khi nhắc đến Mẹ:

 

          Xuân này con mẹ vẫn tha hương,
          Mẹ một phương trời, con một phương,

 

Hình ảnh Người Mẹ Già được tác giả phác hoạ chỉ với một câu thơ nhưng rõ nét:


          Tóc trắng Mẹ già thêm chút nữa,

 

Vâng, xa nhà xa quê hương, xa gia đình nhất là xa Mẹ, nhớ thương Mẹ đã được Thi Sĩ tác giả tâm sự để kết thúc thi phẩm, được gói trọn qua câu thơ:

 

          Và con, nhòa nhạt tiếng yêu đương.

 

Bài thơ thật súc tích, không những cho người đọc hình dung ra được ngay cảnh gia đình chuẩn bị đón Tết mà còn đong đầy tình cảm thương nhớ người thân và quê hương.

 

 

Bây giờ tôi mạn phép được giới thiệu nhạc phẩm do tôi phổ nhạc bài thơ Xuân Vẫn Tha Hương dưới đây với khả năng tự học mò tàm thụ với ông thầy Google để kết thúc bài tạp ghi.

 

Thú thật trong đời tôi hầu như ít khi viết giới thiệu về Thơ-Văn-Nhạc vì tôi không biết gì nhiều về nhạc nên xưa nay nào dám. Thêm nữa, văn chương chữ nghĩa của một cựu học sinh ban B như tôi thì "khỏi chê vì xưa lúc đi học rất ghét môn Việt văn", vậy mà thời gian qua tôi lựu đạn đã xí xọn, gồng mình viết vài bài tạp ghi giới thiệu về thơ nhạc, lại còn bày đặt phổ vài bài thơ mình thích tình cờ thấy trên nhóm / diễn đàn thành nhạc nữa. Thầm nghĩ cũng lạ thật !.

 

Xin nói thêm, cái hay của thi phẩm " Xuân Vẫn Tha Hương " của Nữ Sĩ Minh Đưc Hoài Trinh theo tôi là Văn-Thi Sĩ Minh Đưc Hoài Trinh đã vẻ ra đơn giản cái "Không Khí Tết xứ người, pha lẫn sự nồng nàn nhớ Quê Mẹ của một người đang sống tha phương trong đó.

 

Thi sĩ tác giả kết thúc bài thơ diễn tả nỗi thương nhớ "Mẹ" của người mất nước và cũng chính là nỗi đau của tác giả đối với quê hương khi còn trẻ cho đến cuối tháng Tư năm 1975 …

 

 

Tôi mạn phép ngưng ở đây và mời Quý độc giả ghé ghé xem bản nhạc do tôi (người soạn nhạc) biên soạn tài tử như là món quà nhỏ kính tặng Cố Nữ Sĩ Minh Đức Hoài Trinh, tác giả của thi phẩm " XUÂN VẪN THA HƯƠNG " mà tôi hân hạnh và tình cờ quen qua diễn đàn Thơ-Văn và Cạu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ ở California/USA.     

 

 blank

 

 

©       Lê-Ngọc Châu

 

          * Nam Đức, Chiều Mồng Bảy Tết Quý Mão, 28. January 2023

          * Tài liệu tham khảo: Internet / Wikipedia & hình tác giả từ internet tự minh họa với nhạc.

 

*************



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi một nhà hiền triết lánh đời để sống ẩn dật trong rừng sâu, một lãnh tụ xuất chúng hy sinh quên mình để cải hội, một nhà thơ miệt mài làm thơ để ca tụng vẻ đẹp của cuộc đời, hay một Thiền sư tịch cốc để đối mặt với khoảng vắng lặng mênh mông, tất cả những việc làm đó của họ, không ngoài mục đích nào khác hơn là phá cho được một con đường đề tự cứu mình và từ đó, giải phóng luôn những thống khổ muôn đời của kiếp người. Thu phong nhọ phất thiềm nha, Sơn vũ tiêu nhiên chầm lục la. Dĩ hỹ thành Thiền tâm nhất phiến, Cùng thanh tức tức vị thùy đa. (Sơn vũ) (Gió thu khuya khoắt thoảng hiên ngoài, Quạch quê nhà non lấp ruổi gai. Thôi đã theo Thiền lòng lặng tắt, Nỉ non tiếng dễ vẫn vì ai?) (13) (Huệ Chi dịch)
Cuốn On Earth We’re Briefly Gorgeous được viết dưới dạng một bức thư từ một người con trai có tên gọi Chó Con, gửi cho người mẹ mù chữ. Với nỗ lực giải thích cho Mẹ hiểu về bản thân mình, Chó Con đã bộc lộ hết tính cách, bản sắc riêng của mình – như những kết cấu từ bạo lực gia đình và xã hội. “Một thoáng rực rỡ” là những chuyến trở về thời thơ ấu đầy dãy những chấn thương từ chiến tranh trong gia đình ba thế hệ, những cơn nghiệp ngập, tình cảm tuổi mới lớn, tìm hiểu và nhận diện bản sắc, giới tính, tình cảm và xung đột gia đình, để rồi cuối cùng, chịu đựng một sự mất mát to lớn. Rất nhiều bài viết giới thiệu cuốn sách này đã được đăng tải trên các tờ báo và trang mạng Mỹ, Việt khắp nơi, nhưng độc giả người Việt vẫn chưa có được bản dịch tiếng Việt, hy vọng sẽ ra đời một ngày không xa.
Thi sĩ người Anh Thomas Ernest Hulme (1883-1917) đã viết về đêm trăng mùa thu như thế trong bài thơ “Autumn” [Mùa Thu] của ông được viết vào năm 1908. Bài thơ có cái nét nên thơ của một đêm trăng tròn mùa thu nơi miền quê thanh bình ở Việt Nam. Nước Mỹ đã chính thức bước vào mùa thu ngày 22 tháng 9, với đêm đã bắt đầu dài thêm và bầu trời vào ban đêm và sáng sớm lành lạnh. Ở Miền Nam California dường như hiếm thấy cảnh lá vàng rực rỡ vào mùa thu nhưng ở những tiểu bang cao hơn về phía bắc thì mùa thu đã bắt đầu vẽ những bức tranh màu vàng màu đỏ tuyệt đẹp. Mùa thu có lẽ là mùa thơ mộng nhất của năm.Mùa thu còn là nguồn cảm hứng bất tận của các nhà thơ và nhà văn. Trong văn học nước Mỹ có nhà văn Louis Bromfield đã viết cuốn tiểu thuyết “Early Autumn” [Chớm Thu] vào năm 1926 và nhờ cuốn sách này mà ông đã đoạt Giải Pulitzer Prize vào năm 1927. Nhân đầu thu xin đọc cuốn “Chớm Thu” của Bromfield. Nhưng Bromfield là ai?
Thử bút, không phải tùy bút, không phải tản mạn, không phải tạp văn… Nó ùa ra, nó túa ra, có lúc tòe loe, có khi hụt hẫng, những cảm hứng, những ngẫu hứng, những xúc động bất chợt, như không kềm chế được… Bạn tôi, Lữ Kiều Thân Trọng Minh, con mắt thầy thuốc đắn đo, cái hồn thi sĩ mang mang, trái tim hiền triết đông phương. Tuổi đôi mươi tự vấn văn chương, số phận, ý nghĩa đời người… Rồi “xuôi dòng” với bao bờ bến lạ. -- Đỗ Nghê Đỗ Hồng Ngọc
Chủ nhật, 27 tháng 5, gia đình chúng tôi cùng bốn người bạn đến chùa Hương Sen. Đến và biết, và là lần đầu đảnh lễ Ni sư Thích Nữ Giới Hương. Khi lễ Phật Đản kết thúc là “thủ tục” chúc mừng Sinh Nhật Ni sư Thích Nữ Giới Hương do Phật tử Chùa Hương Sen tổ chức. Đơn giản, nhẹ nhàng, nhanh gọn mà sao chúng tôi cảm nhận được sự ân cần, ấm áp của nghĩa tình Thầy-Trò trong kỷ niệm đáng nhớ này.
Trí tuệ và từ bi có phải chỉ riêng nhân loại mới có? Hay là, loài vật cũng có trí tuệ và từ bi, nhưng ở mức sơ khai hơn? Cuộc nghiên cứu mới đây về heo rừng cho thấy những bất ngờ về mức độ cao của không ngoan và tình thương nơi một trường hợp khảo sát. Cuộc nghiên cứu của các nhà khoa học tại Czech University of Life Sciences Prague cho thấy lần đầu tiên ghi lại đầy đủ hình ảnh về trường hợp được ghi lại trên báo Business Insider hôm 5/9/2021 qua bản tin nhan đề “A family of wild boars organized a cage breakout of 2 piglets, demonstrating high levels of intelligence and empathy” (Một gia đình heo rừng tổ chức phá cũi, cứu 2 heo con, cho thấy mức độ cao của trí tuệ và thương xót). (1) Các hình ảnh ghi lại cho thấy một heo rừng cái đã giúp 2 con heo nhỏ thoát ra khỏi 1 chuồng bẫy. Con heo rừng cái, dựa theo kích thước và tính phái nên được suy đoán là heo mẹ, đã tìm các chiến thuật để đẩy bật các thanh gỗ chốt đang chặn cửa chuồng bẫy.
Lời thơ mộc mạc, giản dị, ngôn từ mang âm hưởng của người dân quê miền Tây Nam Bộ, để diễn tả cảm xúc, tư duy gắn kết với con người, với sinh hoạt xã hội và thiên nhiên, để phát huy cái hay, cái đẹp truyền thống của Việt Nam. Ý thơ mang tính xây dựng, thể hiện gương mẫu đạo đức qua những bài học làm người. Người tốt, theo quan niệm “Trung, hiếu, tiết, nghĩa” của người xưa.
Nếu phân biệt về giới tính, số lượng và tác phẩm của những người viết “Nam” ngoài vòng đai trong Văn chương miền Nam thời chiến (1954-1975) có khá nhiều: Y Uyên, Lê Bá Lăng, Doãn Dân, Trần Hoài Thư, Phạm Văn Nhàn, Luân Hoán, Vũ Hữu Định, Phan Xuân Sinh, Nguyễn Bắc Sơn, Linh Phương... Hầu như không có một người “Nữ” nào viết ngoài vòng đai cả. Có thật vậy không? Phải đợi đến tháng 10/2011, nghĩa là sau 40 năm từ khi sách được phát hành vào tháng 9/1971, khi trang blog Phay Van với cô chủ thật “đặc biệt” và nhóm bạn yêu thích văn chương mà tôi đã ghi lại trong “Hành trình của Cõi Đá Vàng” [1], thì tôi mới biết đến tên nhà văn Nguyễn Thị Thanh Sâm. Trước năm 1975, trong chúng ta hầu như không mấy ai nghe nói tới tác phẩm “Cõi Đá Vàng” của bà, dù cho cuốn sách ấy được nhà An Tiêm, một trong những tên tuổi của miền Nam thời bấy giờ, xuất bản.
Ngày 11 tháng 9 năm nay 2021 đánh dấu 20 năm sau ngày nước Mỹ bị tấn công khủng bố kinh hoàng nhất trong lịch sử gần hai trăm rưởi năm lập quốc khi tổ chức khủng bố quốc tế al-Qaeda dùng máy bay dân sự chở đầy xăng và hành khách làm vũ khí lao vào các mục tiêu tấn công, gồm World Trade Center tại New York, Ngũ Giác Đài tại Thủ Đô Washington và một nơi nào đó nhưng đã bị những hành khách Mỹ yêu nước phản kháng một cách bi hùng trên chuyến bay United Flight 93 bị khủng bố cướp đã cất cánh từ Phi Trường Newark của New Jersey trên đường đến San Francisco đã lao xuống một nơi hoang dã tại Shanksville, Pennsylvania làm gần 3,000 người thiệt mạng. Cảnh tượng tòa tháp đôi World Trade Center tại Thành Phố New York, biểu tượng của trung tâm tài chánh phồn thịnh nhất thế giới, bị hai chiếc máy bay dân dự đâm thẳng vào với ngọn lửa đỏ rực bùng lên giữa nền trời xanh của một ngày cuối hạ, 11 tháng 9, và sau đó sụp đổ hoàn toàn thành bình địa đã trở thành hình ảnh kinh hoàng của thời đại khủng bố.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.