Hôm nay,  

Một thoáng về Hoàng Cầm

12/02/202414:09:00(Xem: 2430)
Chân dung văn học

hoang cam

Nhà thơ Hoàng Cầm và tác giả.

 

Hà Nội 1994. Chúng tôi vẫn biết Hoàng Cầm là người cùng quê và là bạn với một ông anh họ từ thời kháng chiến chống Pháp, nhưng không ngờ nhà thơ lại theo xe ra đón chúng tôi ở phi trường Nội Bài. Hôm đó Hoàng Cầm mặc một cái màu đỏ xậm trông rất hào hoa dù Hà Nội năm đó vẫn còn rất nghèo.
    Suốt thời gian chúng tôi ở Hà Nội ông đến thăm nhiều lần vì khách sạn chúng tôi ở gần nhà ông trong khu phố cổ. Tôi nhớ một buổi sáng ông dẫn chúng tôi đi ăn bún riêu ở ngõ Tạm Thương. Lâu rồi không được ăn cua đồng, thấy ngon tuyệt. Ông tặng chúng tôi mấy quyển thơ và một cuốn băng do ông đọc. Và cả những lời thơ ông viết trên cuốn Tự Điển Việt Nam tặng chúng tôi, mang nặng hình ảnh quê hương:
 
Ta con chim cu về gù dặng tre
đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
về tụ nóc cây rơm…
 
Chúng tôi cũng đến thăm ông vài lần ở 43 phố Lý Quốc Sư. Cả căn nhà mặt tiền của ông đã bị chiếm, họ chỉ để lại cho gia đình ông một phòng nhỏ phía sau. Hai người con trai và vợ con ở tầng dưới. Chúng tôi phải leo cái thang gỗ ọp ẹp lên cái gác xép đơn sơ là giang sơn riêng biệt của thi sĩ, ngổn ngang những tài liệu cũ mới.
    Dưới ngọn đèn không đủ ánh sáng, chúng tôi ngồi nói với nhau đủ chuyện. Qua giọng nói hòa nhã của ông, tôi có cảm tưởng ông không những là một nhà thơ, mà là một nhà văn hóa, đặc biệt về văn hóa Kinh Bắc.
    Là một kẻ tha hương, xa quê Kinh Bắc, Gia Lâm-Thuận Thành từ khi còn rất nhỏ, tôi không được có nhiều hình ảnh về quê cũ, nhưng đọc bài thơ của Hoàng Cầm, cảm thấy như quê cũ rất gần, thật gần trong tâm tưởng:
 
Nhớ mưa Thuận Thành
Long lanh mắt ướt

Là mưa ái phi
Tơ tầm óng chuốt
Ngón tay trắng nuột
Nâng bồng Thiên Thai
Mưa chạm ngõ ngoài
Chùm cau tóc xoã
Miệng cười kẽ lá
Mưa nhòa gương soi
Phủ Chúa mưa lơi
Cung vua mưa chơi
Lên ngôi Hoàng Hậu
Cứ mưa Thuận Thành
Giọt mưa chưa đậu
Vai trần Ỷ Lan
Mưa còn khép nép
Nhẹ rung tơ đàn
Lách qua cửa hẹp
Mưa càng chứa chan
Ngoài bến Luy Lâu
Tóc mưa nghiêng đầu
Vành Khăn lỏng lẻo…
[…]
Ơi đêm đợi chờ
Mưa ngồi cổng vắng
Mưa nằm lẳng lặng
Hỏi gì xin thưa
Nhớ lụa mưa lùa
Sồi non yếm tơ
Thuận Thành đang mưa…

Theo như nhà phê bình Quang Huy, thì “lời thơ đọc lên như một bài kinh, âm điệu của đất trời Kinh Bắc đã ngấm vào ngọn bút tài hoa của ông. Thơ Hoàng Cầm đưa người đọc qua những chùa chiền, lăng miếu, những cầu, những bến, cây lá, hội hè. Giữa Nguyễn Bính, Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử, Hoàng Cầm mang một phong thái riêng: Ông đa tình, kiêu sa và đầy ẩn ức”.
    Ta hãy đọc bài Chùa Hương của ông, để thấy sự khác biệt với thơ của Nguyễn Nhược Pháp:
 
Anh trẩy chùa Hương phía xót thương
Bến Trong, bến Đục nửa chia đường
Thiên Trù chợt lắng chuông buông tím
Bỗng gặp em nằm đắp khói sương
 
Đêm chúng tôi rời Hà Nội, Hoàng Cầm lên tận toa xe ngồi với chúng tôi cho tới khi tàu chuyển bánh. Ông cũng đem theo một bài thơ tặng Thuấn Anh, con gái chúng tôi,  mà ông gọi là “khối pha-lê màu xanh lá mạ”của ông. Nguyên là mấy ngày hôm trước ông theo chúng tôi về Gia Lâm Bắc Ninh thăm mộ ông thân chúng tôi. Sau buổi lễ, cháu tha thẩn ngắt những bông hoa dại mọc đầy gần đó. Bác Hoàng Cầm hỏi cháu có biết những cánh hoa đó là hoa Trinh Nữ (cây mắc cỡ) không?  Dĩ nhiên là cháu không biết. Bác giảng giải cho cháu những đặc tính của cây hoa và một số cây cỏ khác của quê hương. Về nhà, bác viết cho cháu những dòng thơ:
 
….Đã ổi ương đâu mà bướng bỉnh
Mà nghe đu đủ thiếu thơ ngây
Cây soan lạ nhỉ đương soan thế
Sao vội buồn nghiêng lá rụng đầy
 
Cây gì cũng lạ, hoa không biết
Cỏ cũng không tên, lá dị kỳ
Chỉ thấy trắng mây trời cõi Việt
Mẹ em thì khóc nỗi ra đi…….
(Tặng cháu Thuấn Anh, khối pha lê màu xanh lá mạ, Hoàng Cầm).
Chuyến tầu tốc hành đêm đó không những đã hoàn thành chuyến xuyên Việt Bắc-Nam của chúng tôi mà bao năm hằng mong đợi, mà lại đem theo hình ảnh sâu đậm của những người bạn mới, những con người lý tưởng chỉ vì đòi hỏi nhân quyền, tự do ngôn luận, mà trở thành những tội đồ khốn khổ suốt đời dưới chế độ Cộng Sản do vụ án Nhân Văn - Giai Phẩm hồi 1956.
    Sau khi trở về Mỹ, cả mấy người bạn mới Hoàng Cầm, Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang đều liên lạc với chúng tôi bằng thư từ. Phùng Quán sau đó bị ung thư gan nặng nhưng trước khi mất cũng đã viết cho chúng tôi một loạt thư trong mấy tháng ngắn ngủi cuối cùng. Chúng tôi cũng còn giữ được những lá thư dài của cụ Đang. Cụ rất cảm động khi chúng tôi tình cờ thấy được hình chụp của với Hồ Chí Minh trên đài ngày tuyên bố độc lập mùng 2 tháng 9 năm 1945 ở vườn hoa Ba Đình và gửi cho cụ.
    Về Hoàng Cầm, mấy năm sau, về thăm Hà Nội, chúng tôi có đến thăm ông. Việt Nam đã đổi mới. Đời sống vật chất của ông có thoải mái hơn xưa, nhưng sức khỏe không còn được như trước. Đọc lại những lá thư của ông, chúng tôi lại thấy bùi ngùi. Có thư dài 12 trang đầy ý tình thắm thiết dành cho người đồng hương mà chúng tôi không bao giờ quên.
    So sánh giữa hai nguồn thơ Phùng Quán và Hoàng Cầm, ông đã viết:
    “Thơ Phùng Quán là tiếng gọi, tiếng hô hào khí phách, thơ diễn tả tư cách chiến đấu sôi nổi của thi sĩ. Thơ Hoàng Cầm thì chìm sâu vào chữ nghĩa, âm điệu tiết tấu, lắng vào cõi vô thức của bản ngã. Thơ của Quán nghe hiểu ngay, hào hứng ngay. Thơ Hoàng Cầm mới nghe khó hiểu, chỉ cảm thấy mơ hồ một điều gì đấy cần phải có tri thức về văn hóa Kinh Bắc mới vỡ ra dần dần. Nhưng khi đã cảm nhận, thấm hiểu được rồi thì nó bám rất chắc vào tâm hồn người đọc. Với cả hai anh em thì mỗi người mỗi vẻ, một bên bốc lên như tiếng kèn xung trận, như hồi trống dục giao tranh, như hồi cồng chiến thắng. Còn một bên trôi chìm như mạch nước ngầm, thấm sâu xuống vực sâu của tâm tư dân tộc, thấm rồi lại nổi lên hình dáng đường nét, màu sắc của vẻ đẹp dân tộc nghìn xưa”
    Hầu hết mọi người hay nhắc đến hai bài thơ nổi tiếng “Đêm Liên Hoan” và “Sông Đuống” trong thời kỳ kháng chiến và sau này hai bài “Tình Cầm” và “Lá Diêu Bông”. Nhưng phải đọc lại những bài thơ trong tập Về Kinh Bắc mới thấy được chính Hoàng Cầm, chính cái dòng thơ đặc thù sâu xa thầm kín của ông. Trong đó có những tình yêu quê hương tha thiết, có những huyền thoại của thời lập quốc, có những linh hiển của tổ tiên, có những bí ẩn không nên lời và đôi khi còn phảng phất hình ảnh dị kỳ. Tất cả trộn lẫn với nhau thành một tuyệt phẩm về vùng Kinh Bắc cổ xưa.
    Hoàng Cầm đã ra đi ngày 6 tháng 5 năm 2010. Biết rằng ông đã bị ngã và phải nằm một chỗ từ mấy năm sau cùng, nhưng chúng tôi không khỏi buồn, thương và tiếc. Tôi nhớ lại những lời thơ Phùng Quán đọc tặng Hoàng Cầm khi tinh thần ông trở nên suy sụp sau mấy năm tù đày vì tội gửi văn thơ ra nước ngoài:
 
Tôi tin núi tàn, tôi tin sông lấp
Nhưng tôi không thể nào tin một nhà thơ như anh lại ngã lòng suy sụp
Ôi nhà thơ đã viết cách đây ba mươi năm những vần thơ lẫm liệt: 
- Tiểu đội anh những ai còn ai mất”
- Không ai còn ai mất, chỉ chết cả mà thôi.
 Kẻ trước người sau lao vào giặc
 Giữ vững ngàn thu một giống nòi

Thế gian có một ngàn giòng sông
Và một ngàn nhà thơ lớn
Nhưng chỉ có một giòng
May được thơ xưng tụng
Nhờ thơ mà vang vọng, nhờ thơ mà vinh danh
Đó là con sông Đuống, con sông của quê anh
Mà anh xót xa như bàn tay anh rụng

Tôi có một niềm tin, chắc như đanh đóng cột
Ngày mai anh nhắm mắt
Đi sau linh cữu anh, ngoài bạn hữu gia đình
Có cả con sông Đuống
Sông Đuống sẽ mặc đại tang
Khóc bên bồi bên lở, sóng vỗ bờ nức nở
Ngàn đời chịu tang anh…
(Thơ Phùng Quán)
 
Hoàng Cầm đã từ giã chúng ta thật rồi. Như Phùng Quán, tôi cũng có một niềm tin: Con sông Đuống của vùng Kinh Bắc, của quê tôi đang nức nở sóng nước đôi bờ để mãi mãi chịu tang ông.

 

– Nguyễn Đặng Bắc-Ninh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bạn nghe một người nói, nhưng không lên tiếng, bạn suy nghĩ nhưng không bộc lộ. Bạn nén sự giận dữ xuống, bạn bôi xóa sự khinh bạc, bạn chờ cho những lời ca tụng giả dối lắng xuống, bạn giữ lại lời khen ngợi đối với một người xứng đáng thêm một ngày nữa, để nó được nung chín trong lòng.
Cầm cuốn sách mới trong tay, tôi lại nhớ có lần ở quán cafe, Trịnh Y Thư băn khoăn, không biết chúng mình in sách vào thời này có phải là chuyện vô ích không, có phải là quá mơ mộng không. Với đa số, nhất là thế hệ trẻ hơn thì có lẽ là cái gật đầu, nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi yêu quý cái vô ích, cái mơ mộng ấy. Tôi xin chia sẻ với quý vị cảm xúc rất riêng của tôi về sách. Nếu không có sách làm sao ta có thể cầm được trên tay cái vật thể nhỏ bé này, một thành quả nhìn bắng mắt cầm bằng tay, chứa đựng trong đó những con chữ đồng hành cùng những phút giây cảm hứng. Không có sách làm sao tôi có thể cảm nhận được trọn vẹn cái sức nặng của hạnh phúc hữu hình trên trang giấy với những dòng chữ ký tặng này? Và khi đọc sách, nghe được tiếng sột soạt khi lật trang giấy, ngửi được mùi giấy mới và cả mùi hương của sáng tạo. Một khi không còn ai in sách nữa thì những tủ đựng sách đẹp đẽ sẽ là món đồ cổ chứng nhân một thời kỳ sách huy hoàng. Và nếu không có sách thì làm sao chúng có được nhữn
Một truyện ngắn kinh điển của văn hào André Maurois, qua bản dịch của nhà văn Thân Trọng Sơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Viết Về Nước Mỹ được nhà thơ Nguyên Sa gọi là “Lịch Sử Ngàn Người Viết.” Mà nếu tính cho đến ngày hôm nay, con số “ngàn” ấy chắc đã lên tới chục ngàn, trăm ngàn. Viết Về Nước Mỹ năm nay là năm thứ 25.
Trong không gian tĩnh lặng của một buổi sớm mùa thu tại thủ phủ Sacramento. Trời đã se lạnh, gió mùa vừa sang và những cơn mưa cũng đang bắt đầu nặng hạt, con chắp tay hướng về phương trời xa, nơi pháp thân Thầy vẫn tỏa rạng giữa hư vô. Bao nhiêu lời muốn nói, rồi bỗng hóa thành im lặng, vì làm sao dùng được lời phàm để nói hết công đức, trí tuệ và từ bi của một bậc Thạc đức như Thầy, người mà bốn chúng gọi là bậc minh sư, bậc long tượng Phật Giáo Việt Nam – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ – người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc và nhân loại.
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza...
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.