Hôm nay,  

Lắm Chuyện

12/07/202414:59:00(Xem: 4654)
blank 

Lắm Chuyện
 
Nguyễn Ngọc Phúc
  

Bạn thân mến,

Thật là rắc rối, chữ nghĩa Việt Nam có nhiều ý nghĩa và phong phú ẩn hiện của bởi sự lãng mạn và bóng gió của ngôn ngữ Việt Nam. 
  

Người miền Nam hay nói :
"nói dzậy mà hổng phải dzậy nhưng còn hơn dzậy."
  

Nó thể hiện cái văn hóa về đời sống và con người Việt Nam. Hãy nhìn, nghe và đọc văn thơ thi ca Việt Nam thì mới thấy ra cái "hổng phải dzậy " của tiếng Việt như thế nào.

Nếu người Việt có rất nhiều ý nghĩ và từ ngữ lãng mạn bóng gió thì có lẽ không thể nào dịch ra được bằng những ngoại ngữ khác.

Cho dù có dịch được, không hiểu nó có mang đủ ý nghĩa bóng bẩy đó không và nhất là người ngoại quốc có thể tưởng tượng cũng như hiểu được hết ý nghĩa của từ ngữ đó chăng?

Điểm khác biệt là đọc ngôn ngữ Việt Nam, tất cả người Việt có thẻ hiểu được, tưởng tượng ra và biết được tác giả muốn nói về cái gì nhưng với bản dịch ra ngoại ngữ, ai dám chắc tất cả người ngoại quốc đều hiểu như nhau.
  

Hãy nghe nhạc tình ca của Âu Mỹ với lời ca: "I want you, I need you, I love OH! my Baby...." đầy rẫy trong nhạc của Beatles cũng như các bài hát mới của người Mỹ mà mỗi khi nghe được, các choai choai Mỹ dẫy nẩy lên để la hét và thích thú.

Nếu dịch ra tiếng Việt: "Anh muốn em, Anh cần em, Anh yêu em OH!, em ơi" thì đến một trăm năm nữa, chưa chắc, một chàng "anh trai Việt?" nào đó sẽ có được một em chịu cho mình ôm eo ếch.
  

Nhưng nếu mà ca lên:
thì chắc chắn, ngoài cái eo ếch được ôm, "anh Trai" có thể được tặng thêm bonus: một nụ hôn chết giấc.

Đó là nói về mặt tích cực hay đẹp đẽ của ngôn ngữ Việt Nam.
 

Còn về mặt tiêu cực hay không đẹp chứ không dám nói là xấu xa của ngôn ngữ Việt Nam thì hãy nghĩ tới chuyện nói bóng gió hoặc cay cú khi thiên hạ chửi nhau, lôi ba đời sáu kiếp hay tám hướng mười phương, kêu réo tam đại tứ tông người chết tới người sống để chửi nhau hay bắt bẻ về chữ nghĩa gọi nhau hay phân định vai vế trong gia dình hoặc xác định ngôi thứ ngoài xã hội.
 

Thế mới hiểu con người và văn hóa Việt Nam quả thật:

* vừa dễ hiểu nhưng cũng rất khó hiểu
- vửa đơn giản nhưng cũng thật rắc rối
* vừa hiền lành nhưng cũng không kém ác độc,
- vừa dễ thương nhưng cũng mau ghét,
- vừa dễ hòa đồng nhưng cũng thích chơi nổi,
- vừa thông minh nhưng cũng nhiều u mê,
- vừa hiếu khách nhưng cũng muốn tự tôn
- hay cãi lý mặc kệ sự hợp lý hay vô lý,
- thích học hỏi tìm tòi nhưng không dám mạo hiểm sáng tạo.
- vv và vv.
 

Những cái " Vừa " rồi " Nhưng" nêu trên không biết là có chủ quan hay là khách quan nhưng chắc chắn, ở những quốc gia khác trên thế giới cũng đều có hai thứ " Vừa" và "Nhưng" tương tự này.

Việt Nam và các nước khác chỉ khác nhau ở chỗ là không biết giữa hai cái "Vừa" và "Nhưng" này, cái nào nhiều hơn cái nào?. Chỉ biết rằng nếu có nhiều "Vừa" mà ít "Nhưng" thì rất là tốt, cho điểm A còn ngược lại, nhiều "Nhưng" và ít "Vừa" thì sẽ là tệ, cho điểm D.

Các bạn thử cho điểm A hay D về những nhận xét nêu trên xem người Việt Nam mình như thế nào?
 

Xin chú ý:
- Xin nhận xét về người dân Việt Nam sau 1975 ở Việt Nam chứ không phải người của chế độ bởi người dân Việt chính là một thực thể va chạm với thế giới và với người Việt Nam cũ trước 1975 chứ người của chế độ hiện nay thì không có gì để nói.

Bố mẹ, ông bà Mỹ gọi con cháu mình là " You" và con cháu gọi bố mẹ ông bà mình cũng là "You" bất kể nội ngoại nhưng đối với ông bà Việt Nam và con cháu thì chữ nghĩa và ngôi thứ gọi phải đâu ra đó và rõ ràng.

Một chữ "You" của Mỹ xài cho mọi người trong gia đình nhưng trong gia đình Việt Nam phải xài tới hơn chục chữ khác nhau để biết mình là ai và You là ai:
- Con, cháu nội, cháu ngoại, chú, bác, cô, dì, dượng, anh, chị, em, cháu chắt, ông bà ngoại, ông bà nội, ông bà cố ngoại, cố nội...
 

Như vậy, chắc chắn, người Việt rất tôn trọng con người và gia đình trong đời sống. Nhờ đó, đỡ mất thời gian phải thành thật khai báo và tìm hiểu, nhờ vậy, sẽ nhanh chóng tìm được việc xử sự sao cho đúng cách.

Tuy nhiên, đối với người Mỹ thì việc đó hơi rắc rối vì hình như có vẻ xoi mói vào đời tư của con người chút ít. Ngay với cha mẹ của người Mỹ, thường cũng hay gọi là "You" tuốt.
 

Ngày mới sang Mỹ, tui không thể gọi cô giáo ESL bằng tên cộc lốc như Cathy, Sue...mà muốn gọi là Mrs, Cathy hay Ms. Sue hay Mme Jane. Ngay với người Mỹ già cũng vậy. Tui đã phải giải thích cho cô giáo biết chuyện này nhưng chỉ nhận được một nụ cười dễ thương và xuề xòa của các cô mà thôi, không yes hay no gì cả. Riết rồi theo thời gian, mình phải sống hòa đồng vào cái văn hóa phong tục của xứ sở mới, gọi tên trống trơn cũng không bị ai bắt bẻ.
 

Tuy nhiên, Mỹ và Việt Nam đều gặp nhau ở 1 tư tưởng lớn mà không cần kiểu cọ và hay phân định ngôi thứ gì là lúc khi tức giận hay chửi nhau, Tấy hay Ta cũng rứa:
- Mỹ sẽ vẫn dùng "You" and "Me" nhưng
- Việt sẽ dùng: "Mày" và "Tao".

Tới lúc này, chả cần gì tới "Vừa" hay "Nhưng" nhưng Việt Nam sẽ được điểm F. Không tin, cứ xem trên Youtube là thấy. Vợ Chồng cũng kêu nhau mày tao là thường.
  

Tương tự như vậy, một chữ Chết trong tiếng Anh và tiếng Việt, thử xem, có bao nhiêu chữ đồng nghĩa với nhau?

Tiếng Anh: 118 chữ
Need synonyms for death? Here's a list of similar words from our thesaurus that you can use instead.

Noun
The cessation of life and all associated processes : 118 words


demise end expiration passing dying expiry curtains decease quietus bereavement departure dissolution doom exit fatality passage release sleep fate grave loss oblivion parting afterlife casualty cessation darkness ending fall finis mortality necrosis overthrow tomb loss of life passing away passing on departure from life eternal rest final exit kicking the bucket passing over great divide extinction destruction ruin termination downfall ruination finish decline undoing annihilation disintegration disaster taps croaking snuffing catastrophe defunction silence lights out dying out the end extermination retribution sentence kiss of death closing going exhalation elapsing terminus crossing the great divide deathblow clincher Waterloo death in the family grim reaper final blow bitter end end of the line end of life buying the farm last roundup number's up coup de grace killing carnage lethality bloodshed deadliness cataclysm tragedy calamity trouble terrible fate grim fate decay degradation collapse rack and ruin debasement degeneration retrogression perishing fragmenting disappearance dégringolade breaking up fizzling out passing into oblivion withering away falling off decline and fall coming to an end petering out ceasing to exist
  

TIẾNG VIỆT: 70 chữ

1- (Tử Vong) cũng chết
2- (Từ trần) cũng chết
3- (Qua Đời) cũng chết
4- (Mất) cũng chết
5- (Rồi đời) cũng chết
6-(Tiêu đời) cũng chết
7-(Đi đứt) cũng chết
8-(Đứt bóng) cũng chết
9-(Hi sinh) cũng chết
10-(Đã Khuất) cũng chết
11-(Nhắm Mắt) cũng chết
12-(Xuôi tay) cũng chết
13-(Đứng tròng) cũng chết
14-(Khuất Núi) cũng chết
15-(Khuất bóng) cũng chết
16-(Tắt thở) cũng chết
17-(Đi rồi) cũng chết
18-(Toi rồi) cũng chết
19-(Đi bán muối) cũng chết
20-(Ngủm củ tỏi) cũng chết
21-(Đắp Chiếu) cũng chết
22-(Chầu trời) cũng chết
23-(Thăng thiên) cũng chết
24-(Theo Ông Bà) cũng chết
25-(Về tổ tiên) cũng chết
26-(Gặp Diêm Vương) cũng chết
27-(Băng hà) cũng chết
28-(Vĩnh biệt) cũng chết
29-(Lìa trần) cũng chết
30-(Chán sống) cũng chết
31-(Buông tay) cũng chết
32-(Lìa đời) cũng chết
33-(Đã mất) cũng chết
34-(Về cõi tây phương) cũng chết
35-(Hóa kiếp lai sinh) cũng chết
36-(Ra đi ngàn thu) cũng chết
37-(Trở về cát bụi) cũng chết
38-(Từ giã cõi đời) cũng chết
39-(Đi lên niết bàn) cũng chết
40-(Chia tay cõi trần) cũng chết
41-(Nghẻo - Queo) cũng chết
42-(Ngắm gà khỏa thân) cũng chết
43-(Ăn chuối cả nải) cũng chết
44-(Xong kiếp phàm trần) cũng chết
(45-Xong một kiếp người) cũng chết
46-(Xong một đời, ngủm củ tỏi ) cũng chết
47-(Lên bàn thờ ngồi) cũng chết
48-(Lên Thiên đàng) cũng chết !
49-(Ngoẻo cù đum) cũng chết
50-(Ngủm cù đeo) cũng chết
51-(Ngoẻo củ từ) cũng chết
52-(Viên tịch) cũng chết
53-(Ra đi) cũng chết

Mới thêm vào từ bạn đọc:
54- Vãng sanh tịnh độ
55- Gặp ông bà
56- Vĩnh biệt
57- Đi ta bà
58- Ngáp rồi
59- Tạ thế
60-Quy tiên
61- Vĩnh viễn chia tay
62- Xuống suối vàng
63-Trở về với cát bụi
64- Đi xa
65-Chúa gọi về
66-Hai năm mươi
67- Ngủ với giun dế
68- Tiêu rồi
69- Đi Đoong
70- Đứng tròng
 

Lúc đầu, ai cũng nghĩ là chữ Chết trong tiếng Việt nhiều hơn trong tiếng Anh nhưng cuối cùng thì tra tin tức trên mạng, ở tiếng Anh, chữ Chết nhiều hơn trong tiếng Việt theo tỷ lệ: 118/70. (70 tiếng Việt phỏng chừng)
 

Vậy thì để kết luận, chúng ta nghĩ gì?

Ngưởì Việt di tản tỵ nạn khi qua đây mới học được tiếng Anh. Cho dù, cuối cùng tốt nghiệp được đại học nhưng có lẽ cũng không thể nào biết tới hết 118 chữ đồng nghĩa với Death trong tự điển Thesaurus được. Ngay người Mỹ bản xứ cũng thế, nói chi đến các chữ khác.
 

- Theo the Oxford English Dictionary dầy 21,730 trang gồm 20 bộ, cũ nhất là bộ số 1 xuất bản năm 1888, mới nhất là bộ thứ 3, xuất bản năm 1997:
*về số lượng của từ ngữ tiếng Anh, có khoảng 600,000 chữ ghi trong đó,
*Những người ngoại quốc học Anh Ngữ thì ước đoán chỉ cần dùng để giao thiệp là khoảng 171,146 chữ mà thôi.
 
- Theo tự điển tiếng Việt dầy 1,208 trang, xuất bản ở VN năm 1988 của viện Ngôn Ngữ học:
*Về số lượng của từ ngữ tiếng Việt, có khoảng 36,000 chữ.

So sánh tổng quát thì:
- tự điển tiếng Anh/ tiếng Việt: - về số lượng từ ngữ, tỷ lệ là: 600,000/36,000= 16.66%
hay tỷ lệ ngược lại ; Việt/Anh sẽ là: 36,000/600,000 x% =6%.
 

Như vậy, tiếng Anh, chắc chắn là phong phú và tích lũy rất nhiều so với tiếng Việt bởi lịch sử lâu dài của nó và được update theo lịch sử thế giới cùng tiến hóa của nhân loại trên mọi phương diện, nhất là khoa học.
Không thể lấy thí dụ về chữ YOU và chữ bố mẹ, ông bà, anh chị em, cô bác........để kết luận là tiếng Việt phong phú hơn tiếng Anh.
 

Tuy nhiên, về thi vị hóa hay lãng mạn hóa văn chương thí ca, dù số lượng từ ngữ ít nhưng tiếng Việt có lẽ lấn át hơn tiếng Anh vì đời sống của con người Việt Nam trong lịch sử thường nghèo khổ và thấp kém, cho nên, lấy thi vị hóa cuộc đời trong thi ca văn học âm nhạc để quên bớt nỗi buồn của thực tại.

Vì vậy, âm hưởng của nhạc Việt Nam thường có nét buồn hơn vui là cũng vì từ đó.
 

Trong lịch sử âm nhạc của Hoa Kỳ, nét nhạc của người Mỹ Da Đen Phi Châu từ lúc bị đưa sang Châu Mỹ làm nô lệ, sống cực khổ, nghèo nàn, thiếu thốn và bị coi rẻ. Sau những lúc làm việc cực khổ và bị đầy đọa ban ngày, đêm đến, họ tụ họp với nhau để an ủi và ca hát cho quên đời.
Những bài hát luôn luôn có những nét bi khúc ai oán của cuộc đời, là than khóc, là kể lể, là xót xa, là quanh quẩn, là ước mơ với nhau.

Từ đó, sinh ra trường phái nhạc Blue, nhạc của người Mỹ Da Đen, ngắn gọn, đơn giản và ai oán.

Nhạc Việt Nam cũng tương tự như vậy.
 
Nếu thế, ngôn ngữ Việt Nam có chiều lấn át tiếng Anh về phương diện thi vị hóa và phong phú hóa nhất là trong văn thơ thi ca và âm nhạc.

Nhưng cuối con đường lấn át đó, nẩy sinh ra được cái gì?

Nẩy sinh ra lắm chuyện để rồi kết thúc bằng hai chữ Mày và Tao trên võ đài bằng miệng hay bằng chân tay.
Trong khi, tiếng Anh thì từ bắt đầu cho đến cuối cùng, YOU vẫn là YOU muôn đời, ít khi so găng.
 

Cám ơn các bạn đã đọc bài Lắm Chuyện của tui, lắm chuyện đến độ, tui không biết đúng hay sai.
Nếu không đúng, xin các bạn thêm bớt dùm.

Xin đa tạ.

Nguyễn Ngọc Phúc
.



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con đê dài rộng, hai bên trồng dừa Tam Quan cao hơn đầu người thẳng hàng, đều khoảng. Những quày dừa màu hỏa hoàng oằn trái. Bóng dừa chìm dưới đáy nước của hai đầm sen – bên trái đầm sen trắng, còn bên phải đầm sen hồng. Từ con đê đi vào khoảng ba trăm thước, một ngôi chùa nằm im lìm giữa hai hàng dương.
Có người bạn văn email hỏi tôi: Tản văn, Tùy bút và Ký giống, khác nhau chỗ nào. Câu hỏi khá bất ngờ và, kỳ thực, tôi không biết rõ lắm, bèn tìm kế hoãn binh, bảo chị đợi tôi trả lời trong một bài viết, thay vì vài câu email sơ sài cho qua. Nhận lời xong, tôi mới biết mình dại, vì không dễ dàng trả lời cho thỏa đáng câu hỏi này chút nào. Thôi thì, đành cố tới đâu hay tới đó, có chi bất cập, sai trái, mong các bạn góp ý và chỉnh sửa lại cho đúng. Giữa ba thể loại, có lẽ Ký dễ phân biệt nhất. Ký cũng là một thể loại văn học phổ biến trong văn học Tây phương, nên tôi có nhiều phương tiện tra cứu hơn. Vì thế, xin nói trước về Ký. Ký là tên gọi chung cho một nhóm thể tài chữ nghĩa văn xuôi nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài văn học, như báo chí, chính luận, ghi chép… Chủ yếu của Ký là ghi chép theo dạng tự sự, miêu tả nhiều hơn là phân tích nội tâm. Ký có nhiều thể loại: Hồi ký, Bút ký, Du ký, Ký sự, Phóng sự, Nhật ký, v.v…
Ngày Hiền Mẫu hay Ngày của Mẹ (Tiếng Anh: Mother's Day) đương thời được khởi xướng bởi bà Anna Marie Jarvis tại thành phố Grafton, tiểu bang Tây Virginia, Hoa Kỳ, để tôn vinh những người mẹ hiền, đặc biệt là trong khung cảnh của mái ấm gia đình. Theo truyền thống của Hoa Kỳ và đa số các quốc gia trên thế giới ngày nay, Ngày Hiền Mẫu được tổ chức hằng năm vào ngày Chủ Nhật thứ nhì của tháng 5.
Hãy hình dung rằng sẽ tới một thời thế giới không còn bom đạn, và thay cho những trận mưa bom sẽ là những trận mưa thơ. Hãy hình dung rằng những góc phố Sài Gòn, Hà Nội và khắp thế giới sẽ dựng lên các bia đá khắc lên những dòng thơ ca ngợi hòa bình và tình thương. Như thế, thơ sẽ chữa lành thế giới, sẽ đẩy nhân loại bước rời xa các u tối chiến tranh, khi những ánh mắt căm thù hốt nhiên chỉ nhìn thấy những trận mưa hoa đầy chất thơ. Thậm chí, hát thơ còn chữa bệnh được: lịch sử ghi rằng trong thời Vua Hùng Vương, hát thơ chữa được sản nạn, hóa giải chứng đau bụng đẻ để bà bầu êm ái cho ra em bé an lành. Ông bà mình từ xa xưa đã nhìn thấy tác dụng của thơ. Khi nhìn thấy người thương bước tới sân đình giữa làng, trong khi lời còn rất rụt rè, thì dòng thơ ca dao có thể nói lên rất nhiều, dù là chàng ướm lời với nàng hay ngược lại: Qua đình ngả nón trông đình / Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu. Sau khi hai dòng thơ trên được hát lên, lời nói nào sau đó cũng dư thừa.
Thơ quả đã giúp cho Phùng Cung sống sót, sau những năm dài tù ngục, và là chỗ dựa cho những người thất thế (như ông) đứng lên làm lại cuộc đời. Và cuộc đời te tua, tả tơi, bầm dập của Phùng Cung cũng khiến tôi thốt nhớ đến những người cầm viết khác – cùng thời với ông – những kẻ đã dựa vào thơ văn chỉ để kiếm chút công danh, hay bổng lộc.
Người ra đi lòng vẫn nhớ, con tim chia hai nửa mang theo nửa để laị quê nhà. Phần nhiều ai cũng nhớ quê hương, với những gã du tử thì càng tha thiết biết bao. Những gã du tử mang nghiệp chữ lòng mang mang viết nên những bài thơ, áng văn dâng cho đời. Mùa xuân về nước non cố quận mình tưng bừng trẩy hội, cho dù có nhiều hư hao và dang dở. Nước non dù còn nhiều nguy hiểm tồn vong, đời dù lắm dâu bể đổi thay, lòng người dù đa đoan… nhưng tình vẫn tha thiết lắm em ơi!
Ngàn năm trước, sau khi Trần Nhân Tông (Trần Khâm) truyền ngôi cho thái tử Trần Thuyên - tức vua Trần Anh Tông – Nhân Tông lên làm Thái Thượng Hoàng. Một năm sau Thượng Hoàng lên ngọn Tử Tiêu núi Yên Tử tu hành, lấy pháp hiệu Điều Ngự Giác Hoàng, lập ra Thiền Phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang đậm bản sắc văn hóa Việt. Thời gian này tại chùa Hoa Yên (Yên Tử), Giác Hoàng mở các buổi thuyết pháp cho tăng chúng, thu nhận nhiều đệ tử.
Bên cạnh mười bài giảng của Thầy Phước Tịnh là mười bài Thiền Ca Chăn Trâu được kẻ nhạc do nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc sáng tác, dựa theo thơ Thầy Tuệ Sỹ. Sách in trên giấy đẹp, khổ vuông 8.5X8.5 inches, dày 90 trang. Sách “Mõ Trâu” do Tâm Nguyên Nhẫn thực hiện chỉ 30 ấn bản để tặng, theo các pháp thoại do Doãn Hương sưu tập lời giảng của Thầy Phước Tịnh về Thập Mục Ngưu Đồ. Doãn Vinh vẽ bìa và phụ bản. Nguyễn Đình Hiếu trình bày. Tâm Tường Chơn biên soạn. Bài này sẽ nhìn Thập Mưu Ngục Đồ qua bản đồ học Phật của Đấng Thế Tôn. Trong hai tạng Kinh A Hàm và Nikaya, Đức Phật đã từng so sánh tiến trình tu tâm như việc chăn bò. Trong Phật Giáo Tây Tạng, cũng có một hướng dẫn tương tự như tranh chăn trâu, nhưng là lộ trình chín giai đoạn chăn voi. / A HÀM, NIKAYA: CHĂN BÒ, THIỀN TÔNG VÀ HẠNH BỒ TÁT/ Trong Kinh Tạp A Hàm SA 1249, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, Đức Phật dạy về kỹ năng tu tâm tương tự như kỹ năng chăn bò, với 11 pháp người chăn bò cần khéo biết.
Ngày Đại Lễ Phật Đản đã được Đại Hội Phật Giáo Thế Giới lần đầu tiên tổ chức tại thủ đô Columbo của Tích Lan năm 1950 ấn định là ngày Rằm tháng tư Âm Lịch hay ngày trăng tròn tháng Vesak của Ấn Độ, tức tháng 5 Dương Lịch. Kể từ đó, các tổ chức Phật Giáo trên thế giới đều lấy ngày này làm ngày lễ chính thức kỷ niệm Đức Phật Đản Sinh. Theo đề nghị của 34 quốc gia có đa số người dân là Phật tử, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc trong phiên họp lần thứ 54 vào ngày 15 tháng 12 năm 1999 đã thông qua Nghị Quyết tuyên dương tinh thần từ bi, trí tuệ và hòa bình của Đức Phật và chính thức tổ chức Ngày Đại Lễ Vesak vào tháng 5 để kỷ niệm đức Phật đản sinh, giác ngộ và nhập niết bàn. Nhân mùa Phật Đản lần thứ 2644 năm nay, xin trích dịch câu chuyện về cuộc đời của đức Phật do Bhikkhu Bodhi viết trong bài “The Buddha and His Dhamma” [Đức Phật và Giáo Pháp Của Ngài]. Bhikkhu là tiếng Nam Phạn (Pali) chỉ giới phẩm Tỳ Kheo của một vị xuất gia trong Phật Giáo. Vì vậy, Bhikkhu Bodhi là Tỳ Kheo Bodhi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.