Hôm nay,  

Còn Đó Tiếng Cười

02/01/202500:00:00(Xem: 3996)

kt nha ca kl nh
Khánh Trường với thân hữu tại triển lãm tranh Khánh Trường ở Việt Báo Gallery, tháng 10, 2018. Từ trái: nhà văn Nhã Ca, ca sĩ Khánh Ly, ca sĩ Nhật Hạ, chị Oanh Thạch vợ Khánh Trường.
Tôi chạy tới nhà thương như một quán tính, tìm chỗ đậu xe một cách dễ dàng, nơi đây tôi đã ra vào quen thuộc, nơi đây tôi sắp sống với một cuộc chia ly mới. Tôi quen lắm hành lang phòng ICU, quen lắm với hình ảnh Bác Mai Thảo, Bác Đỗ Ngọc Yến, với Bố, với Mẹ... Và nay hình ảnh một thân quen quá đỗi hiện ra trước mắt - chú Khánh Trường! đang nhắm nghiền mắt, đang thoi thóp thở... Chị Hoà Bình ôm vai tôi, siết thật chặt. Hai chị em chẳng nói với nhau một lời, nhưng tôi hiểu, cả hai chị em, đang lục tìm trong quá khứ, để sống lại những ngày thật đằm thắm bên chú. 

Tuổi thơ của tôi gắn liền với hình ảnh của bác Mai Thảo, chú Khánh Trường và Bố.  Hôm nào họ cũng hẹn hò, họ cũng gặp nhau bù khú, rôm rả tiếng cười… Ồn ào nhất vẫn luôn là chú Khánh Trường, bô lô bô la: Lần này tiền ăn sáng là 500 đô, tôi trả! Ai cũng biết Chú chỉ nói dóc! Họ hẹn hò nhau mỗi ngày ở phở Nguyễn Huệ. Họ thường chiếm chiếc bàn tròn lớn ngay trung tâm. Bao giờ cũng vậy, họ chỉ có 3 người, nhưng chừng mươi phút thì mấy chiếc ghế chung quanh được kéo vào, có khi chen chúc nhau ngồi. Đây là lúc chú Khánh Trường “làm việc,” mắt chú bắt đầu rảo quanh để kiếm… nạn nhân, và rồi chú bắt đầu cười cười, mắt nheo nheo. Buông lời “đâm thọt.” 

- Anh ạ, cái thằng này có hôm nó nói thơ anh không phải thơ! Thế là sao hở anh?

- Ông đếch cần thằng nào khen thơ ông.

Vậy là mắt bác Mai Thảo lừ lừ, “đếch” liên tục. Bác càng “đếch” thì chú Khánh Trường càng bịa ra bao thứ, mặc cho nạn nhân phân trần. Có khi nạn nhân phải đứng dậy đi chỗ khác, chú khoái chí cười hô hố. Trò này diễn ra hàng ngày, nạn nhân có khi là người ở xa, có khi một người trẻ mới tập tành làm thơ… Chú bịa ra đủ thứ chuyện để bác Mai Thảo mắng. Có hôm nạn nhân là mẹ tôi.

- Anh ạ, bà Tuyền sắp ra tập thơ, nhờ em layout, đang muốn nhờ anh viết lời tựa. 

Bác Mai Thảo, dừng đũa, lừ lừ nhìn mẹ tôi. Mặc cho mẹ tôi cãi chính, chú vẫn bô bô

- Thật mà anh. Tôi đã layout nửa cuốn rồi. Chờ anh thôi ạ, anh viết cho bã vài dòng thôi, mới tập tễnh, khen lắm bã lại hăng mà ra thêm cuốn hai thì phiền!

Dù mẹ tôi nói như van chú thôi đi, nhưng chú vẫn châm vào khiến bác Mai Thảo không an tâm, đe doạ mẹ tôi: “Chớ nha em! Không được nha em!”

Hôm đó bố tôi cũng bị lừa, quay qua hỏi mẹ: “Thật không Tuyền!?” Cả bàn phá lên cười. Đương nhiên người cười to nhất là chú Khánh Trường. Nhiều người là nạn nhân của chú vậy mà ai cũng thương.  Trong đó có tôi. Thuở ấy, tôi là 1 đứa trẻ rụt rè, nhút nhát. Tôi không có bạn bè. Bù lại, những người bạn của Bố rất thương và nuông chìu tôi. Bác Cảnh cho tiền tôi đi học thêm. Bác Mai Thảo và chú Khánh Trường thì luôn kêu những món ăn tôi yêu thích.  Dù lúc ấy tôi đã tròn như hột mít, nhưng họ cứ cho tôi ăn. Trong mắt họ tôi luôn là đứa trẻ, cần được bảo bọc, cần phải ăn no, chóng lớn.  Họ ngồi hằng giờ với nhau, mỗi ngày mỗi tháng, hàng năm, mà không hề chán nhau. Trong trí nhớ của tôi, chú Khánh Trường là người yêu cái đẹp. Chú có thể đắm chìm trong nhan sắc của một nàng thơ.  Nhưng ngoài vợ ra, chú chỉ yêu bạn bè.  Chú có thể nhìn say đắm một người phụ nữ, cứ ngỡ chú đang yêu cuồng dại, nhưng nếu bác Mai Thảo hay bố tôi gọi, chú sẽ bỏ ngay để chạy tới với bạn. Trong mắt tôi, chú Khánh Trường cuồng, nhưng không hề dại.  

Trong miền thơ ấu của tôi, chú Khánh Trường ngang tàng, hào sảng… Vậy mà có một ngày, bệnh ập đến với chú. Những người thân xung quanh tôi, có lẽ chú là người đón nhận bệnh tật đầu tiên.  Và dù có bao lần dỗ bệnh, nó cứ ập tới với chú một cách thô bạo, nó dày vò thể xác chú.  Tuy vậy, bạo bệnh, không làm giảm đi sự nồng nhiệt với đời, nồng nàn với văn chương, hội hoạ. Chú vẫn sừng sững như cây tùng, cây bách, chú ngạo nghễ với đời. Những căn bệnh không cướp đi của chú sự ngang tàn. Chúng lại càng không cướp đi được tiếng cười giòn tan.  Sau này, những lần gặp gỡ, khi được ngồi cạnh chú, tôi luôn nhắm mắt vài giây.  Trong những giây phút đó, tiếng cười của chú luôn đưa tôi về quá khứ, với hình ảnh của Bố tôi và Bác Mai Thảo. Tiếng cười hăng hắc của chú Khánh Trường khi chọc phá người này, trêu ghẹo người khác. Tiếng cười giòn giã của chú cũng kèm theo hình ảnh bác Cảnh trong quán Nguyễn Huệ - một ông Hà Thành đỏm dáng, đi tới đi lui với điếu thuốc điệu đàng trên tay. Tôi thấy lại bác Bùi Bảo Trúc với đôi mắt láu lỉnh, luôn châm chọc, giễu cợt một ai đó, bác thích bánh đậu xanh…, Họ nói lớn, cười vang như cùng là chủ nhân của tiệm phở Nguyễn Huệ,

Khanh Truong và Orchid

Họa sĩ Khánh Trường và Orchid Lâm Quỳnh, buổi chiều cuối tháng Ba, 2024.

Suốt một tuần lễ, dù có bận rộn với những ngày cuối năm, lòng tôi, trí tôi vẫn quay về nơi chốn quen thuộc - nhà thương. Tôi không còn sợ nhà thương. Những năm sau này, tôi gọi đó là nhà thương, chứ không gọi là bệnh viện, vì nơi đây, đã đem đến cho tôi những vết thương, rất cần thiết trong đời sống. Tôi vào nhà thương để tìm lại tiếng cười của chú.  Tiếng cười với những người của muôn năm cũ. Nhưng cả tuần qua, nơi đây chỉ có sự tĩnh lặng, tàn nhẫn. 

Tối hôm qua, chú Khánh Trường đã về với tôi trong giấc mơ.  Tôi nhìn rõ khuôn mặt rạng ngời của chú.  Tiếng chú cười lớn trong sớm mai.  Tôi và chị Hoà Bình, ôm chầm lấy chú.  Ba chú cháu chụp với nhau cả triệu tấm hình.  Tim tôi không còn bị cuốn đi bởi nỗi buồn bất biến mà là niềm hạnh phúc vô biên bên chú bên chị.  

Chú ơi, chú đi bình an.  Khi gặp Bố, Bác Mai Thảo, Bác Bùi Bảo Trúc, Bác Cảnh… chú ôm họ thật chặt dùm con. Chú nhớ “dọa” với bác Mai Thảo mẹ con sẽ vẫn chờ lời giới thiệu của bác ấy, nhớ gọi thật nhiều món ăn, và để bác Cảnh trả tiền nghe chú. 
  
Orchid Lâm Quỳnh
 

Ý kiến bạn đọc
04/01/202518:29:53
Khách
Bài viết cảm động và hay
Q vẫn vậy ❤️
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày Đại Lễ Phật Đản đã được Đại Hội Phật Giáo Thế Giới lần đầu tiên tổ chức tại thủ đô Columbo của Tích Lan năm 1950 ấn định là ngày Rằm tháng tư Âm Lịch hay ngày trăng tròn tháng Vesak của Ấn Độ, tức tháng 5 Dương Lịch. Kể từ đó, các tổ chức Phật Giáo trên thế giới đều lấy ngày này làm ngày lễ chính thức kỷ niệm Đức Phật Đản Sinh. Theo đề nghị của 34 quốc gia có đa số người dân là Phật tử, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc trong phiên họp lần thứ 54 vào ngày 15 tháng 12 năm 1999 đã thông qua Nghị Quyết tuyên dương tinh thần từ bi, trí tuệ và hòa bình của Đức Phật và chính thức tổ chức Ngày Đại Lễ Vesak vào tháng 5 để kỷ niệm đức Phật đản sinh, giác ngộ và nhập niết bàn. Nhân mùa Phật Đản lần thứ 2644 năm nay, xin trích dịch câu chuyện về cuộc đời của đức Phật do Bhikkhu Bodhi viết trong bài “The Buddha and His Dhamma” [Đức Phật và Giáo Pháp Của Ngài]. Bhikkhu là tiếng Nam Phạn (Pali) chỉ giới phẩm Tỳ Kheo của một vị xuất gia trong Phật Giáo. Vì vậy, Bhikkhu Bodhi là Tỳ Kheo Bodhi.
Thành phố của tôi đích thực là Hà Nội: tôi sinh ra ở đó, tôi đã sống trọn vẹn thời tuổi trẻ ở đó. Nhưng tôi có một ông bác ưa phiêu lưu, sớm rời bỏ thành phố sinh trưởng, đi bén rễ ở một nơi mà ngày nhỏ tôi tưởng như xa xôi lắm. Đảo Phú Quốc ở mãi tận cùng đất nước. Những giấc mơ tuổi trẻ của tôi thường hướng về chân trời thật xa đó. Những giấc mơ cũng có khi hiện thành sự thật với những gánh hát tự miền xa tới trình diễn. Bao nhiêu đêm rực rỡ ánh sáng tiền trường, vang vang tiếng ca giọng nói của miền xa
Ngày 30 tháng 4 năm 2020 đánh dấu 45 năm Miền Nam Việt Nam thất thủ. Khởi đi từ đó dù cuộc chiến bom đạn đã chấm dứt trên quê hương nhưng lại mở ra một trận chiến âm thầm khốc liệt và đau thương khác cho dân tộc. Đó là cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác, giữa tự do và độc tài, giữa nhân đạo và bất nhân mà bằng chứng cụ thể là hàng triệu người dân ruồng bỏ chế độ độc tài đảng trị tàn bạo cộng sản ra đi bằng đường bộ và đường biển khiến cho cả triệu người phải vùi thây dưới lòng đại dương hay chôn thân trong rừng sâu núi thẳm. Từ bối cảnh đó hai chữ “thuyền nhân” ra đời trong sự thức tỉnh của lương tâm nhân loại trước định mệnh nghiệt ngã của dân tộc Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20. Trong ý nghĩa này, thuyền nhân là những người dám xông vào cõi chết để tìm đất sống.Tại sao phải bỏ nước ra đi? Tại sao một dân tộc có lịch sử mấy nghìn năm kiên trì bất bại bám giữ từng tấc đất của ông bà tổ tiên để lại như người Việt Nam lại phải chọn lựa cho mình con đường bỏ nước ra đi đầy hung hiểm
Ba người đàn ông ngồi quây xung quanh cái bàn gỗ tròn trong quán và cùng hướng về phía quốc lộ chạy mất hút vào trong rừng cao su ở hai bên. Quán bằng lá nằm cuối dãy phố mươi lăm chiếc nhà, sát cạnh con đường đất xe hơi có thể vào, ngăn phố với rừng cao su. Đầu trên dãy phố là đồn dân vệ rào ba lần thép gai trên treo lủng lẳng những ống lon rỉ. Người đàn ông ngồi ngoài cùng kế cây cột chống, mặc áo lá và quần xà lỏn, một chân co lên mặt ghế, tay bưng ly cà phê uống từ hớp nhỏ. Người đàn ông liền bên vận quần áo ka-ki sờn rách, đầu đội nón bẻ vành, chân đi giày không vớ, cầm chiếc muỗng nhỏ xíu gõ nhịp lên bàn. Người ngồi tách riêng một phía già hơn hết, tóc tiêu muối, vận quần lãnh đen bám bụi đỏ, áo túi trắng ngả màu, trước một ly cà phê sữa. “Có lẽ tụi nó về hết rồi.” Ông già nói. “Còn mà. Ít nhất còn cái 601 chưa về.” “Vậy ai chơi nổi với mày nữa. Mày thuộc hết số xe còn gì? Thằng này điếm quá.” “Ờ... tôi nhớ nhưng biết cái nào tới trước cái nào tới sau?”
Nhân loại đang đối phó với một trận dịch bệnh vô cùng nguy hiểm. Những mong manh của đời người hiển lộ ra rõ ràng hơn. Những khổ đau không còn là chuyện nghe nói của ký ức hay chỉ đọc trong sách vở, nhưng là những gì hôm nay chúng ta nhìn thấy ngay ngoài phố, góc chợ và màn hình điện thoại. Giữa các khổ đau trùng trùng của phận người như thế, tôn giáo đã trở thành nơi nương tựa thiết thân cho nhiều người, trong đó các lời cầu nguyện và than khóc được ghi vào âm nhạc và thi ca như các bậc thang hướng về cõi an lành, nơi đó đi song song với khổ đau là hy vọng. Bài này sẽ khảo sát về bốn tôn giáo lớn của nhân loại qua mắt nhìn thi ca về khổ đau và hướng tới hy vọng, sẽ viết theo thứ tự đông tín đồ nhất --- Thiên Chúa Giáo nhiều hệ phái (31.5% dân số thế giới), Hồi Giáo (23.2%), Ấn Độ Giáo (15.0%), Phật Giáo (7.1%) --- trong đó 3 tôn giáo lớn nhất tin vào Đấng Sáng Tạo, duy chỉ Phật Giáo nói rằng không hề có Thượng Đế nào trên đời này cả.
Nhưng không. Hắn không nằm mơ. Hắn biết chắc rằng nếu đây chỉ là giấc mơ thì chủ đích trở về thực tại đã không thất bại. Hắn đã không tỉnh dậy. Cảm giác mềm mại của lớp vải bên trong quan tài, hắn cảm thấy, cùng lúc cái “mùi thối” trở lại, thối khủng khiếp, thối đến nỗi hắn đâm ra nghi ngờ, không biết đó có phải “mùi thối” của chính mình không. Hắn muốn nhìn bà con dòng họ hắn trước khi hắn tan rữa, và cảnh tượng một đống thịt thối rữa hiện ra trước mắt chắc hẳn sẽ làm họ chết khiếp vì kinh tởm. Hàng xóm sẽ xúm nhau bỏ chạy, ai nấy lấy khăn tay che miệng, và nhổ nước bọt liên hồi. Không. Không thể thế được. Tốt hơn họ phải đem hắn đi chôn ngay. Tốt hơn phải dẹp bỏ ngay “cái đó,” càng sớm càng tốt. Lúc này, thậm chí chính hắn cũng muốn vứt đi thân xác mình. Bây giờ hắn biết rất rõ hắn đã chết, hoặc, có sống thì cũng chẳng đáng kể, chẳng ra gì. Có khác biệt nào không? Trường hợp nào thì cái “mùi thối” vẫn ngoan cố bốc lên. Với lần bỏ cuộc này hắn sẽ được nghe lời kinh cầu nguyện
Chỉ cần lão bước thêm một bước nữa, hay nói chính xác hơn là lão đụng vào mẹ hắn, một cú bàn long cước sẽ tung thẳng vào cuống họng của lão, và tiếp đó là một cú cắm thiết chõ vào ngay giữa trán lão. Cú đòn này hắn đã luyện suốt hơn hai mươi năm nay, từ thời ngăn sông cấm chợ, cái thời mà các lò võ phải lén lút tập luyện lúc ba giờ sáng, các võ đài do nhà nước mở ra chỉ để đánh cuội mang tính trình diễn và những võ sĩ thực thụ không bao giờ bước lên võ đài ấy. Hắn luôn sống trong hối hận và ăn năn.
Nhớ lại năm 1407, quân Minh xâm lược Đại Việt ta, cha của Nguyễn Trãi là Nguyễn Phi Khanh bị bắt giải sang Kim Lăng, nước Tàu. Nguyễn Trãi khóc tiễn cha đến tận ải Nam Quan thì Nguyễn Phi Khanh khuyên ông trở về mưu đồ phục thù và rửa hận cho cha bằng con đường cứu nước. Nói tới Nguyễn Trãi mà tiếc cho nước mắt của ông. Ngày xưa, khi tiễn cha bị đày qua Tàu nước mắt Nguyễn Trãi đã thấm ướt cửa ải nước Việt. Ngày nay Ải Nam Quan đã thuộc phần đất của Tàu, thế thì nước mắt ngày xưa của Nguyễn Trãi nay đã trở thành giọt lệ khô trên đất Tàu vậy.
Bây giờ, mỗi lần đi coi hát, nhìn thấy những diễn viên thủ những vai phụ, tôi lại chợt nhớ đến Liêm. Tôi nhìn lên những diễn viên đó (những diễn viên mà suốt một vở tuồng chỉ xuất hiện vào khoảng độ mười phút trở lại) lòng se sắt một nỗi buồn. Hình ảnh của họ là hình ảnh của Liêm mười năm về trước. Cũng những vai trò tầm thường ấy, cũng những câu nói ngắn ngủi ấy, có khi là một vai lính hầu suốt buổi hát chỉ chờ để “Dạ” một tiếng thật lớn, có khi là một vai tướng cướp, một tên côn đồ hung dữ mà vở tuồng chưa qua khỏi màn đầu đã bị giết chết. Tôi nhìn họ, nghĩ đến những chiếc tàu nằm ở những ga hẻo lánh, suốt đời chỉ giữ có mỗi một nhiệm vụ là đẩy giúp những con tàu chính lên khỏi một đoạn đèo dốc. Ngày xưa, đã có lần tôi ví Liêm là chiếc đầu tàu xe lửa đó.Liêm với tôi quen nhau hết sức tình cờ. Ngày ấy tôi đi theo một đoàn hát cải lương lưu diễn quanh năm tại các tỉnh miền Bắc. Tôi giữ vai trò cũng không lấy gì làm quan trọng lắm trong đoàn hát này. Suốt ngày, tôi chỉ có một nhiệm vụ


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.