Hôm nay,  

Hiền Sĩ

17/10/202309:15:00(Xem: 2825)
Tôn giáo

Tuệ Sĩ

Đã toan viết rồi lại thôi đến mấy lần, viết gì đây bây giờ? Nào đâu phải là chuyện hí luận chữ nghĩa hay phù phiếm văn chương? Viết gì đây khi mình không thể nào thấy hết tầm vóc của ngài về: Pháp học, pháp hành, trí huệ, bản lãnh, khí phách, đức hạnh, công phu… Trí huệ của ngài như biển rộng núi cao. Đức hạnh của ngài thanh tịnh như pha lê; tín tâm và tinh thần vô úy như kim cang bất hoại. Ngài như đóa hoa sen trong tâm tưởng của hàng tứ chúng. Ngài là tòng lâm thạch trụ, là long tượng của Phật giáo Việt Nam.
    Tự biết mình quá hèn kém, mê mờ ngu si nhưng lòng ngưỡng mộ, tâm kính ngưỡng thì không biết bày tỏ ra sao nên đành mượn những dòng chữ thô sơ để làm phương tiện thổ lộ. Cũng vì bất tài vô tướng và bạc nhược nên chỉ còn có cách duy nhất là mượn văn tự để tỏ lòng tôn kính bậc tôn sư.
    Nhớ năm xưa khi cuộc chiến tương tàn chấm dứt, tiếng là thống nhất nhưng nước non tan nát, lòng người ly tán, loạn lạc tràn lan, khủng bố dữ dội, đời sống cùng quẫn kiệt quệ. Mọi người đành vượt biên đi tìm một vùng đất khác để sống. Nhiều người cũng khuyên ngài ra đi nhưng ngài nhất định ở lại. Lúc bấy giờ ngài chỉ là ông thầy tu còn rất trẻ nhưng tư tưởng của ngài rất lớn, tấm lòng rất quảng đại từ bi, sự can đảm của ngài không cần phải nói nữa. Ngài nói: “Thầy ở lại với các con”, chỉ một lời nhẹ nhàng nhưng chứa đựng cả tấm lòng đại bi. Ngài làm đúng như lời đã nói, chấp nhận ở lại với tứ chúng đang trong cơn cùng khốn ly loạn đau thương của xứ sở. Nếu như Bồ tát Địa Tạng Vương đi vào địa ngục thì ngài ở lại cũng là vào “địa ngục trần gian” vậy. Tâm từ của ngài biết viết sao cho đủ đây? Chữ nghĩa vô phương, miệng lưỡi cũng không sao nói hết được! Những năm tháng cả dân tộc đói nghèo cùng quẫn, quốc gia tụt hậu, đời sống tâm linh hoàn toàn bị phế bỏ và cấm kỵ… Ngài chống gậy trúc lên đường. Ngài dựng lập những gì đã đổ, phục hoạt những gì bị phá hoại… và ngài bị tù tội, thậm chí mang trên thân cái án tử hình. Đọc những bài thơ trong tù ngục của ngài mới thấm thía thân phận con người trong vòng lao lý và càng thấy tôn kính ngưỡng mộ hơn. Ngồi trong ngục thất, mang cái án tử hình ngài gõ ngón tay lên tường rêu mà nhìn xem thế sự xoay vần.
    Rồi những năm tháng sau khi hòa thượng tăng thống Thích Quảng Độ tịch, con thuyền giáo hội lại lần nữa tròng trành. Ngài phụng mệnh thọ ấn truyền thừa đứng ra gánh vác trọng trách nặng nề và nguy hiểm. Thật sự mà nói thì cái danh vị “ Tăng thống”, “ Xử lý thường vụ viện”… chỉ là hư danh nhưng thật nguy hiểm vì thế lực chính trị thế tục luôn tìm mọi cách đánh phá, mạ lỵ, bôi nhọ, hãm hại… Cái danh vị hão huyền ấy chỉ mang họa vào thân chứ chẳng lợi lạc gì, tuy nhiên bậc Bồ tát thì sá gì chuyện lợi lạc hay hiểm nguy. Bậc Bồ tát xem danh vị, danh văn lợi dưỡng như dép rách, gạch bể ngói vụn. Ngài đương thân thọ ấn đứng ra gánh vác trách nhiệm là vì đại chúng, vì cơ đồ và tương lai của Phật giáo Việt Nam. Những thế lực chính trị thế tục đánh phá đã đành, ngay cả trong nội bộ cũng tranh giành lũng đoạn hòng mưu đoạt cái danh vị ấy. Vi trùng nội thân trong giáo hội gây ra phân chia, cắt xẻ, mưu lập cát cứ cũng vì danh văn lợi dưỡng rắp tâm tranh ngôi đoạt vị , ra sức lập những thứ trá hình để tự xưng tiếm xưng. Ngài vẫn ẩn nhẫn trong am nhưng tín tâm không suy suyển, tinh thần kiên cố bất suy. Giáo hội truyền thừa vẫn âm thầm hoạt động phục hoạt bất chấp mọi khó khăn bủa vây, bất chấp mọi âm mưu đánh phá từ ngoài vào hay từ trong ra.
    Từ Thị Ngạn am, thanh âm những khúc giao hưởng vẫn văng vẳng vang vọng khắp đất trời, tiếng đàn piano thánh thót bay cao bay xa thượng cúng dường hạ hóa chúng sanh. Ngón đàn trác tuyệt, những vần thơ vô cùng đẹp khiến người đời phải thảng thốt: “ Đại sư hãy làm thơ nữa đi” (Bùi Giáng). Những trước tác luận giải kinh sách triết học của ngài quả thật không phải ai cũng đủ sức đọc, đủ sức hiểu.
    Ngài ngồi đó gầy gò trong bộ áo lam, ngài như cây sậy nhưng bão dông không thể quật ngã. Ngài là bậc thượng sĩ : “… bần tiện bất năng di uy vũ bất năng khuất”. Ngài là tay nghệ sĩ tài hoa với những ngón đàn vi diệu giữa đêm trường. Ngài là bậc hiền sĩ, những gì ngài viết ra phải hàng trung căn và thượng căn mới kham nổi. Ngài là bậc thiền sư mà hành trạng không phải người nào cũng hiểu và theo kịp, ngay cả pháp lữ cũng không mấy người thấy hết tầm vóc của ngài. Ngài nối tiếp công việc dịch kinh dang dở của hội đồng dịch kinh trước kia, dưới sự chỉ đạo và điều hành của ngài hội đồng phiên dịch đã hoàn thành bộ Thanh Văn tạng, một phần trong bộ đại tạng kinh tiếng Việt. Bộ Thanh Văn Tạng đã dịch xong và ấn hành gởi đi khắp các chùa Việt. Đây là công trình lớn và đầy ý nghĩa. Công trình phiên dịch kinh đòi hỏi năng lực trí huệ, trình độ văn hóa, công sức, tâm huyết của ngài và cả hội đồng. Bộ Thanh Văn Tạng đã hòan thành, mang lại niềm hoan hỷ lớn cho cả bốn chúng, là cơ sở để tu học, đọc tụng, tham khảo, tra cứu, lưu truyền cho hậu thế…
    Có một điều rất đáng buồn là việc lớn như thế, quan trọng như thế, lợi lạc to lớn và dài lâu như thế mà ở Việt Nam với cả trăm cơ quan báo chí truyền thông Phật giáo không hề đề cập đến, dù chỉ là một dòng tin tức vắn tắt. Bộ Thanh Văn Tạng được phiên dịch, ấn hành và cúng dường khắp nơi trên thế giới nhưng ở Việt Nam thì không ai hay biết! Những người con Phật có thể bất đồng chính kiến, bất hòa kiến giải… nhưng chí ít việc dịch và in kinh Phật thì cũng nên hoan hỷ mới phải! Thế mới biết lòng người thật khó hiểu, cùng xưng con Phật, cùng hình tướng như nhau nhưng lòng dạ tâm tánh chẳng như nhau. Qua sự im lặng trước việc phiên dịch và ấn hành bộ Thanh Văn Tạng, thử đọc lại “Thư gởi tăng sinh thừa Thiên – Huế” của ngài lại càng thấy xót xa và thống thiết như thế nào!
    Phật giáo Việt Nam hiện nay quả thật cần một cuộc đại phẩu thuật để cắt bỏ những ung bứu, u nhọt, thịt thừa...Cần gỡ bỏ những thứ cấy ghép tà vạy trên thân, cần thuốc đặc trị để điều trị những vết thương lở loét và những loại độc trùng nội thân, virus từ bên ngoài. Phật giáo Việt Nam hiện nay toàn hình tướng màu mè, âm thanh rền rang, toàn đại ngôn sáo ngữ mà thực chất không có bấy nhiêu. Tương lai Phật giáo Việt Nam thật đáng ngại, tiền đồ giáo hội dân lập cũng đầy gian nan thử thách. Ngài là bậc long tượng, là tòng lâm thạch trụ nhưng sách cũng có câu: “ Mãnh hổ nan địch quần hồ”, bao nhiêu chia chẻ, phân tán, xâu xé, tranh đoạt… từ bên trong; bao nhiêu cô lập, cấm bế, mạ lỵ, hạn chế sinh hoạt, cản trở sự phục hoạt từ bên ngoài… Ngài nay cũng đã cao niên, sức khỏe cũng đã suy, trên trước ngài còn có những bậc long tượng khác nhưng dưới sau ngài thì chưa thấy ai. Cơ đồ của giáo hội dân lập, tương lai của Phật giáo Việtn Nam quả thật đáng để lo ngại lắm thay.
    Cầu mong chư Phật, chư bồ tát, chư hiền thánh gia hộ cho ngài pháp thể khinh an, diên thọ tăng long để phục hoạt giáo hội, dẫn dắt hàng tứ chúng, phục quang Phật Việt.
 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 0923)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Pháp môn Tịnh độ còn được gọi là pháp môn niệm Phật do bản nguyện của Đức Phật A Di Đà mà thành. Chữ A Di Đà dịch âm từ chữ Phạn Amitābha, chữ Hán dịch là Vô lượng thọ và Vô lượng quang; nghĩa là tuổi sống lâu không số lượng kể, Ngài có hào quang tỏa sáng không lường...
Với lòng thành, với tu theo Quán thế Âm từ lâu khi còn ở Huế, cầu xin được hai ngày thì có báo ứng. Tự nhiên có 3 con cá voi, một con đi đầu dẫn đường còn hai con còn lại cập kẹp vô thuyền hai bên hông mạn thuyền mà bơi về hướng mà sau này biết là Hong kong. Ba con cá ông nầy bơi như vậy suốt 2 ngày 2 đêm thì sáng ra, thấy bờ đất liền là Hong kong thì đàn cá chia tay. Cả nhà sống được và đi Mỹ ở California đến ngày nay.
Chư Phật, chư Bồ Tát trong quá trình tu tập thường phát nguyện lớn. Những lời nguyện ấy giống như kim chỉ nam cho sự hành hoạt. Lời nguyện phát ra làm cho tín tâm tăng trưởng và kiên cố chí tu học. Những đaị nguyện ấy thể hiện cái năng lực, trí huệ và lòng đaị bi của chư Phật, chư Bồ Tát.
Rừng điêu tàn thì đất nước suy vong; đây mới chính là cội rễ của vấn đề.bChúng ta cứu giúp đồng bào bị nạn nhưng chính chúng ta có ai nghĩ đến cội nguồn của vấn đề là nạn phá rừng cưa gỗ tàn phá đất nước. Tác động tới môi trường, phá rừng vẫn đang tiếp diễn và đang làm thay đổi khí hậu và địa lý.
Tôi sinh ra trong một gia đình Phật Giáo. Bà tôi, mẹ tôi hay đi chùa lễ Phật. Bố tôi là một giáo sư dạy ở Đại Học Vạn Hạnh, có viết một số sách về Thiền nổi tiếng. Khi còn trẻ ông thiền tập đều đặn, hầu như mỗi tối, ngay cả khoảng thời gian ông đi tù cộng sản. Anh chị em trong nhà tôi đa số đều qui y Tam Bảo. Có lẽ vì ảnh hưởng bố nhiều hơn mẹ, nên bọn tôi có khuynh hướng học, nghiên cứu về thiền nhiều hơn, chứ không hay đi chùa niệm Phật. Bản thân tôi cũng có thực hành thiền từ tuổi mới lớn. Như vậy coi như là tôi đã “tu thiền”?
Khổ đau bao trùm cả nhân loại, cả thế giới. Đó là một sự thật, không ai có thể chối cãi. Chính vì không ai có thể tránh khỏi, khổ đau trở nên bình thường trong cảm nhận chủ quan của mỗi người; và nó chỉ khởi hiện rõ rệt khi bị đẩy lên vượt mức. Đến lúc ấy, người ta mới gục đổ và chịu nhìn nhận sự thật.
Đụng đến ngũ uẩn là đụng đến Duy Thức Học, Vi Diệu Pháp, những phần thâm sâu, trừu tượng vào bâc nhất của Phật Giáo. Hai truyền thống Phật Giáo Đại Thừa và Nguyên Thủy cũng giải thích không hoàn toàn giống nhau về ngũ uẩn. Nó phức tạp giống như thế giới phân tâm học của Freud trong khoa học Tây Phương. Với kiến thức sơ cơ của một Phật tử tại gia, tôi cũng “lùng bùng” không kém anh ta
Vào chiều ngày Chủ Nhật 5 tháng 7 2020, Hòa Thượng Thích Phước Tịnh tiếp tục chương trình giảng pháp trên mạng cho nhóm Giới Trẻ Mây Từ và các Phật tử. Tuần này chủ đề bài giảng là Cư Trần Lạc Đạo, hay Ở Đời Vui Đạo. Cư Trần Lạc Đạo là bài thơ thiền nổi tiếng của đức vua Trần Nhân Tông, cũng được gọi là Điều Ngự Giác Hoàng. Ngài là vị vua đời Trần với chiến công lẫy lừng ba lần đại phá quân Nguyên. Ngài cũng là sơ tổ của Phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng Thiền Việt Nam với đặc điểm nhập thế.
Đối với nhiều Phật tử, “Giới- Định- Tuệ” là ba từ hay đọc, nghe, và nói đến nhiều nhất khi đụng đến Phật Pháp. Tôi cũng thế. Từ thuở mới trưởng thành, có đọc được một chút kiến thức từ sách vở về triết lý Phật Giáo, tôi mê lắm. Thỉnh thoảng tôi nói với bạn bè những điều đọc trong sách như “Giới-Định-Tuệ là nền tảng của Phật Giáo…”. Nhưng khi bị hỏi tới, tôi lúng túng liền, và từ đó biết rằng chắc mình chỉ mới hiểu bề nổi trên mặt chữ.
Chúng con Chư Ni Chùa Hương Sen và học trò nhỏ của Ôn từ Mỹ Quốc vừa hay tin Hòa thượng giáo sư đã viên tịch, quãy dép về Tây vào lúc 3h15 phút sáng nay 16/4/ Canh Tý, Chủ Nhật ngày 07 tháng 06 năm 2020 tại Sài Gòn, Việt Nam. Chúng con thật vô cùng bồi hồi kính tiếc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.