Hôm nay,  

Đại Bi

01/09/202513:57:00(Xem: 1276)

Đại bi, lòng thương rộng lớn, là nền tảng của hạnh bồ-tát, của tâm bồ-đề. Không có đại bi thì không có Bồ-tát, không có Phật. Tất cả dụng hạnh của Bồ-tát đều khởi đi từ đại bi; bởi vì đại bi là bản thể của phương tiện (1).

Từ nơi bản thể đại bi mà mở bày phương tiện thiện xảo (2), cứu độ chúng sanh. Nhưng phương tiện thiện xảo, nếu không cùng khởi xuất từ trí bất-nhị thì chỉ là những xảo thuật của tự ngã, tôn vinh lợi ích hay danh dự cá nhân bằng phương châm lợi tha.

Trí bất-nhị là tuệ giác, là trí tuệ vượt khỏi những ý niệm về hữu-vô, sinh-diệt. Vì vậy, khi bồ-tát vận dụng phương tiện thiện xảo từ lòng đại bi, thì đồng lúc thi triển trí bất-nhị: tất cả các pháp đều huyễn hóa không thật, giống như hoa đốm giữa hư không; không thấy sự khác biệt giữa ta và người, giữa cái khổ tự thân và thống khổ của chúng sanh, giữa hiện hữu hay không hiện hữu, giữa sinh tử và niết-bàn:

“Thế gian ly sanh-diệt
Do như hư không hoa
Trí bất đắc hữu-vô
Nhi hưng đại bi tâm.” (3)

Thuật ngữ thông thường gọi là Trí tuệ và Từ bi; còn nói bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi như Thiền sư Nhất Hạnh, là Hiểu và Thương. Đây là ngôn ngữ tiếp cận xã hội, ai cũng có thể hiểu và thực hành. Nhưng để Hiểu và Thương một cách thâm sâu như Đại Trí và Đại Bi, cần triển khai đến thượng tầng tri hành của người tầm cầu giải thoát giác ngộ chứ không phải chỉ quẩn quanh với tình cảm và hành động thường tục. Có nghĩa là phải miên mật tu tập, thường xuyên quán chiếu Bốn Tâm Vô Lượng (Từ, Bi, Hỷ, Xả), hoặc trải qua các giai đoạn luyện tâm, phát tâm bồ-đề, mới có thể phát triển được đại bi, lòng thương rộng lớn.

Lòng thương, dù mở rộng và quy hướng đến quả vị Phật đi nữa, cũng bắt đầu từ tình thương nền tảng là thương Mẹ. Từ thương Mẹ, nhớ đến ơn sâu của Mẹ, Cha, thân thích, bằng hữu. Từ nhớ ơn, nghĩ đến báo ơn. Từ báo ơn, khởi lòng từ mong muốn lợi lạc hạnh phúc đến Cha, Mẹ, người thân. Từ niệm thương yêu (từ tâm), khởi lòng đại bi, muốn cứu khổ Cha, Mẹ, quyến thuộc, người thân, kẻ oán, và tất cả chúng sanh. Từ đại bi tâm như thế, canh cánh trong lòng ý nguyện cứu khổ ban vui cho chúng sanh, xem như là trách nhiệm phải thực hiện trong đời sống hiện thực (chứ không phải chỉ trong thiền quán). Từ hoài bão cứu độ chúng sanh, phát khởi tâm bồ-đề dũng mãnh, chỉ một lòng hướng về quả vị vô thượng chánh giác. (4)

Mọi người đều có sẵn lòng đại bi, và cũng có sẵn những phiền não tham, sân, si...; cho nên, lòng đại bi cần phải được nuôi dưỡng và phát triển qua thiền quán và qua thực nghiệm (bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự) (5). Đại bi lớn mạnh thì phiền não mới được chuyển hóa, triệt tiêu.

Đại bi không phải là tình cảm suông. Đại bi là nguồn động lực vô hình nhưng có thể chuyển động và hóa giải tất cả sức nặng của thống khổ trần gian. Không biết bố thí thì không có đại bi. Không biết nói lời chân thật, hòa nhã, thương yêu thì không có đại bi. Không biết làm việc lợi ích cho người, cho xã hội thì không có đại bi. Không biết sống hòa với cộng sự và người chung quanh thì không có đại bi.

Đại bi là mẹ của Phật. Đại bi là mẹ của chúng sanh. Không có mẹ thì không có Phật. Không có mẹ thì không có chúng sanh.

Mẹ biểu tượng, hay mẹ thực tế, đều là căn bản, là chất liệu để khai sinh một đời mới. Một hữu tình chúng sinh, hay một bồ-tát hướng về vô thượng bồ-đề.
Đó là lý do kinh Phật thường ví mẹ như Phật ở nhà; và cũng là lý do mà hình ảnh mẹ, bài ca về mẹ, luôn có mặt trong tất cả các lễ Vu Lan hàng năm.

___________

(1) Tuệ Sỹ - Du-già Bồ-tát Giới, Hương Tích xuất bản 2019, Chương II, Bồ-đề Tâm, trang 77.


(2) “Một cách tổng quát, upāya-kauśalya, hay phương tiện thiện xảo, là trí năng nhạy bén để tiếp cận vấn đề, hay vận dụng thủ đoạn [phương tiện] một cách linh hoạt để thành tựu mục đích.” (Tuệ Sỹ - Huyền Thoại Duy-ma-cật, Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang xuất bản 2007 tại Hoa Kỳ, trang 56). Nên hiểu ở đây là pháp do đức Phật thuyết, là ngón tay chỉ mặt trăng, là ngôn ngữ văn tự dùng để thuyết minh, diễn đạt chân lý (chứ không đơn giản là phương cách hành động tùy tiện, lạm xưng là ‘phương tiện’ để thâu tóm quyền lợi, danh vị cho cá nhân hay tập thể).
(3) Kinh Lăng-già, Tôn giả Cầu-na-bạt-đà-la (Guṇabhadra [394-468]), dịch từ Phạn sang Hán: “世間離生滅 / 猶如虛空花 / 智不得有無 / 而興大悲心.”
(4) Pháp tu bảy tầng nhân quả: (1) Nhớ mẹ, (2) Nhớ ơn, (3) Báo ơn, (4) Tu tập tâm Từ, (5) Tu tập tâm Bi, (6) Tu tập ý nhạo tăng thượng, và (7) Tu tập cầu tâm Bồ-đề. Xem thêm chi tiêt trong “Bồ-đề Đạo Thứ Đệ Lược Luận,” của Đại sư Tây Tạng Tsongkhapa [1357-1419], Pháp sư Đại Dũng, Pháp Tôn dịch Hán, Thích Pháp Chánh dịch Việt, trang 203-210.
(5) Tứ nhiếp pháp: bốn phương thức cảm hóa người khác một cách hữu hiệu để đưa họ vào đường chánh.



biachanhphap166
Hình bìa: Pixabay.com


CHÁNH PHÁP Số 166, tháng 09.2025

NỘI DUNG SỐ NÀY:

· THƯ TÒA SOẠN, trang 2

· TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3

· THÔNG ĐIỆP VU LAN 2025 (Hội Đồng Giáo Phẩm), trang 6

· NHỮNG ĐÓNG GÓP TO LỚN CỦA CÁC HỌC GIẢ ANH QUỐC CHO NỀN PHẬT GIÁO ÂU-MỸ, t.t. (HT. Thích Trí Chơn), trang 7

· GIÁO DỤC HIẾU THẢO VỚI MẸ CHA (Nguyên Siêu), trang 9

· VU LAN BÁO HIẾU (thơ Thích Chúc Hiền), trang 13

· NGƯỜI XUẤT GIA & VẤN ĐỀ LỄ LẠY CHA MẸ (Chúc Phú), trang 14

· VU LAN NHỚ MẸ HIỀN (thơ Tuệ Uyển Nhi), trang 19

· THÔNG BÁO AN CƯ KIẾT ĐÔNG (GHPGVNTNHK), trang 20

· PHẬT GIÁO VÀ DI DÂN (Nguyên Giác), trang 21

· ĐỊNH LỰC, THIÊN SỬ (thơ Hoàng Xuân Sơn), trang 23

· BỐ CỤC TỨ NIỆM XỨ (Thích Tâm Hạnh), trang 24

· TỨ CÚ LỤC BÁT “VU LAN THÁNG BẢY” (thơ Vĩnh Hữu Tâm Không), trang 29

· TRI HÀNH HỢP NHẤT (Nhóm Áo Lam), trang 30

· THƯ CUNG THỈNH VÀ THƯ MỜI LỄ HIỆP KỴ LỊCH ĐẠI TỔ SƯ – NGÀY VỀ NGUỒN LẦN 14 (HT. Thích Thông Hải), trang 31

· TÌNH MẪU TỬ (Shundo Aoyama – Hoang Phong dịch), trang 32

· THƯƠNG LẮM QUÊ NHÀ, Ở ĐÓ... (thơ Nguyễn An Bình), trang 34

· ĐÊM QUA, MẸ NẰM MƠ (Vĩnh Hữu Tâm Không), trang 35

· TRÒ VUI GIẢ DỐI (thơ TM Ngô Tằng Giao), trang 39

· KHOẢNH KHẮC VU LAN (Tiểu Lục Thần Phong), trang 40

· TRỞ VỀ BẰNG SỰ RA ĐI, TRÚC BIẾC HOA VÀNG (thơ Huệ Trân), trang 42

· MÁ ƠI (Thanh Nguyễn), trang 43

· VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA NHẬN THỨC VỀ VÔ THƯỜNG TRÊN CON ĐƯỜNG TU TẬP GIẢI THOÁT (Tuệ Huy Tô Đăng Khoa), trang 45

· CON VỀ THĂM MÁ CHIỀU NAY (thơ Thanh Nguyễn), trang 46

· MƯA RƠI THÁNG BẢY (thơ TN Giới Định), trang 47

· TRUYỆN CỰC NGẮN (Steven N), trang 48

· TA LÀ AI? (thơ Diệu Viên), trang 49

· THÁNG BẢY MƯA VỀ NHỚ MẸ CHA... (thơ Minh Đạo), trang 51

· NGÔN NGỮ VÀ GIẢI THOÁT: Mỹ học và Sứ mệnh Văn học Phật giáo (Huệ Đan), trang 52

· BÔNG HỒNG TRẮNG MÙA VU LAN (thơ Nhật Quang), trang 55

· CÓ TRĂNG, TA VẪN KHÔNG QUÊN ĐÈN (Tuệ Uyển Nhi), trang 58

· KHÚC NGUYỆN CẦU, TÂM SEN CỦA PHẬT... (thơ Tôn Nữ Mỹ Hạnh), trang 59

· TƯƠNG QUAN THẦY THUỐC, BỆNH NHÂN (BS. Nguyễn Ý Đức), trang 60

· KÍNH GỬI MẸ CHA (thơ Trần Toản), trang 62

· SINH NHẬT, NÊN NGHĨ TỚI CÔNG ƠN MẸ, CHA (TL Đào Mạnh Xuân), trang 63

· CÂU CHUYỆN PHẬT NHẬN CON (Truyện cổ Phật Giáo), trang 66

· CỞI TRÓI tập 2 – chương 18 (truyện dài Vĩnh Hảo), tr. 67


https://chanhphap.us/CHANH%20PHAP%20BO%20MOI/Muc%20luc%202025/CP%20so%20166%20(09.25).htm

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mỗi năm, Chương trình Giải thưởng Vinh danh thành phố Perris xác định các cơ sở tôn giáo hay thương mại mà chúng tôi tin rằng đã đạt được thành công đặc biệt trong cộng đồng địa phương và chức năng phục vụ của họ. Đây là những cơ sở tôn giáo địa phương nâng cao hình ảnh tích cực giúp thành phố Perris trở thành một nơi tuyệt vời để sống an vui và làm việc.
Tuy nhiên, như mặt trời giữa hư không, sau những lúc bị mây mù, khói bụi che khuất, rồi cũng xuất hiện tỏa sáng thế gian. Cũng vậy, mặt trời trí tuệ, vốn là Giác tính uyên nguyên của mọi loài chúng sinh, trong sinh tử trường kỳ bị che lấp bởi khách trần phiền não, rồi cũng sẽ bừng sáng khi nhân duyên hội đủ. Đạo Phật Việt Nam, kể từ thời dựng nước, độc lập và tự chủ, đã dung hội giác tính trong nhất thể dân tộc, trải qua những thăng trầm, vinh nhục của lịch sử, vẫn tự tin và đứng dậy từ những sụp đổ đau thương.
Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có. Nó giúp để nhận biết chính mình: cái phần thô tháo và cái phần mềm mỏng của chính chúng ta, sự đam mề, sự gây hấn, cái vô minh và trí huệ của chính chúng ta.
Ngày nay đạo Phật truyền bá rộng rãi và phổ biến ở nước Nga. Tôi có kết bạn với một cô Phật tử người Nga, ban đầu cô ấy là một tín đồ chính thống giáo, nhưng sau khi đọc một ít tài liệu khái quát về Phật giáo và cô ấy đã thay đổi, theo lời cô ấy thì” Một sự hoan hỷ và truyền cảm như trỗi dậy từ trong tiềm thức”.
Tổ Tiên, Cha Mẹ là những người đã tạo nên “thân mạng” cho chúng ta; với công lao to tát hy sinh khổ cực trăm bề để nuôi dưỡng chúng ta lớn khôn nên người. Chúng ta phải lo đáp đền ân sâu nặng nầy mới trọn đạo làm người, lúc cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Chính Đức Phật cũng dạy ân đức cha mẹ khó đền đáp, dù các con có báo hiếu bằng cách cắt thịt da dâng cho cha mẹ lúc cha mẹ đói khát cũng không đáp được công ơn cha mẹ.
Nước Việt Nam đã bị người Pháp đô hộ khoảng một trăm năm. Gần trăm năm đô hộ tại Việt Nam người Pháp phải đương đầu với nhiều lực lượng kháng chiến chống thực dân không ngừng nghỉ. Truyền thống đấu tranh của dân tộc Việt đã giục giả nhiều thanh niên thiếu nữ yêu nước đã lên đường. Một trong những nhà tranh đấu là ông Trần Hửu Duyên người may mắn được thân cận với Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ. Hân hạnh giới thiệu ông Trần Hửu Duyên với cuộc đời kháng chiến chống ngoại xâm, chống bạo lực và tranh đấu cho tự do dân chủ.
Cầu kiến chư bồ tát, chư hiền thánh tăng, chính là cầu kiến Phật tánh, tánh giác của mình, cầu kiến bản tâm thanh tịnh của mình, cầu kiến để tiêu trừ vô minh phát sinh trí huệ, tăng trưởng từ bi, kiên cố bồ đề tâm. Cầu kiến chư bồ tát, chư hiền thánh tăng không chỉ mỗi mặt lý hay đơn thuần mặt sự mà lý sự phải đi đôi thì mới không bị nghiêng lệch, phải lý sự viên dung thì mới thật sự là cầu kiến.
Đạo Phật đồng hành với dân tộc đã hơn hai ngàn năm nay. Người Việt tiếp xúc với đạo Phật hầu như đủ các trường phái, pháp môn: Bắc tông, Nam tông, nguyên thủy, mật tông. Trong các tông ấy laị chia chi li hơn nữa như: thiền tông ( của cả Bắc lẫn Nam truyền), tịnh độ, kim cang thừa…
Pháp môn Tịnh độ còn được gọi là pháp môn niệm Phật do bản nguyện của Đức Phật A Di Đà mà thành. Chữ A Di Đà dịch âm từ chữ Phạn Amitābha, chữ Hán dịch là Vô lượng thọ và Vô lượng quang; nghĩa là tuổi sống lâu không số lượng kể, Ngài có hào quang tỏa sáng không lường...
Với lòng thành, với tu theo Quán thế Âm từ lâu khi còn ở Huế, cầu xin được hai ngày thì có báo ứng. Tự nhiên có 3 con cá voi, một con đi đầu dẫn đường còn hai con còn lại cập kẹp vô thuyền hai bên hông mạn thuyền mà bơi về hướng mà sau này biết là Hong kong. Ba con cá ông nầy bơi như vậy suốt 2 ngày 2 đêm thì sáng ra, thấy bờ đất liền là Hong kong thì đàn cá chia tay. Cả nhà sống được và đi Mỹ ở California đến ngày nay.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.