Hôm nay,  

Liệu Có Khó Để Nhận Biết Rượu Giả?

26/01/202400:00:00(Xem: 1611)

ruoi gia
Rượu giả là chuyện hầu như ai cũng đã từng nghe qua. Và thật sự rất khó để phân biệt thật, dù có là dân sành rượu đi nữa. (Nguồn: pixabay.com)

Để tạo ra một chai Mouton Rothschild 1945, hãy pha hai phần Château Cos d'Estornel với một phần Château Palmer và Cabernet California. Đó là mánh lới của Rudy Kurniawan, một gian thương kinh doanh rượu vang, ông ta đã pha trộn các loại rượu này rồi đổ vào những chai cũ có dán nhãn giả và bán cho những người sưu tập cả tin. Năm 2014, ông ta bị kết án 10 năm tù tại một nhà tù ở Hoa Kỳ, bị tịch thu 20 triệu MK và phải trả thêm 28 triệu MK cho các nạn nhân.
 
Bị trục xuất về quê hương Indonesia vào năm 2021, Kurniawan hiện đã quay trở lại hoạt động kinh doanh. Tại các bữa tiệc sang trọng, khách hàng yêu cầu ông này thử pha rượu giả để so sánh với hàng thật. Nhiều người nếm thử xong thì nói là thích rượu pha hơn. Một người tán thưởng: “Rudy Kurniawan là một thiên tài trong lĩnh vực rượu.” Nếu một chai rượu giả nhưng vẫn đáp ứng mục đích của nó – là mang lại niềm vui cho chủ nhân – thì việc thật, giả liệu có còn quan trọng không?
 
Kurniawan là một trong những gian thương khét tiếng được nhắc đến trong cuốn “Vintage Crime” nói về lịch sử gian lận rượu vang của Rebecca Gibb, một nhà báo chuyên về rượu và cũng là một bậc thầy về rượu. Thế giới rượu có nhiều điểm tương đồng với thế giới nghệ thuật. Nó dựa vào ý kiến của các chuyên gia, những người tin vào tính xác thực của một chai Château Lafite (hoặc một bức tranh Rembrandt) có thể làm thay đổi đáng kể giá trị của nó.
 
Nhưng các chuyên gia cũng có thể bị lừa như thường. Không ít người sành rượu đã lên tiếng xác thực cho những chai rượu có vấn đề. Người tiêu dùng bình thường thì ít khi nghi ngờ thương hiệu rượu mình mua. Một nghiên cứu với hơn 6,000 lần nếm rượu mù (blind tasting) cho thấy những người không sành rượu thường lại thích những loại rượu rẻ tiền hơn. Một nghiên cứu khác cũng phát hiện ra rằng những người nếm thử rượu chỉ cảm thấy nó đắt tiền khi được cho biết giá cả.
 
Cuốn sách nói về lịch sử rượu của bà Gibb bắt đầu từ thời La Mã, những người làm rượu và người bán rượu pha thêm vào rượu các loại thảo mộc và gia vị để làm cho chúng ngon hơn. Chỉ người giàu mới có thể mua được những chai rượu không bị pha trộn. Những người lính uống hỗn hợp rượu giấm và nước, trong khi rượu cho nô lệ uống được làm từ vỏ nho đã được giã nát. Pliny the Elder khẳng định rằng những loại đồ uống này “không thể được coi là rượu chuẩn mực.”
 
Hầu hết các chất phụ gia đều vô hại, nhưng không phải tất cả. Vào những năm 1690, các tu sĩ ở Ulm, Đức, bắt đầu bị bất tỉnh. Một bác sĩ phát hiện ra rằng một gian thương đã thêm chì monoxit vào rượu chua để khiến nó ngọt hơn. Sau đó, người ta ra luật mới để hình sự hóa hành vi này, nhưng người ta vẫn tiếp tục uống các loại rượu độc hại. Một số nhà viết tiểu sử cho rằng Beethoven, một người nghiện rượu nặng, có thể bị điếc do nhiễm độc chì.
 
Nhãn dán có thể khiến người ta bị lừa. Khi những vườn nho ở Burgundy bị tàn phá bởi ký sinh trùng phylloxera vào những năm 1880, các nhà sản xuất rượu vang Pháp bắt đầu nhập cảng rượu từ nơi khác và bán nó với tên Burgundy. Năm 1889, Pháp thông qua luật “loi griffe”, định nghĩa rượu là nho tươi lên men (và hạn chế các nhà sản xuất pha thêm nước hoặc thêm chất phụ gia).
 
Tuy nhiên, luật không ngăn được các thương gia mua nho chất lượng thấp và biến chúng thành loại rượu có nhãn “champagne.” Từ năm 1907 đến năm 1911, gần một nửa số chai champagne bán ở Pháp không phải là hàng thật. Áp lực từ các nhóm sản xuất rượu đã dẫn đến việc tạo ra hệ thống appellation, vạch ra ranh giới xung quanh các khu vực để đảm bảo rằng chỉ rượu vang từ khu vực đó mới có thể được dán nhãn như vậy. (Hệ thống này dựa trên khái niệm “terroir”, một vùng đất đặc biệt mang lại cho rượu một hương vị không thể nhái lại ở nơi khác).
 
Đương nhiên, những kẻ lừa đảo vẫn tiếp tục coi thường các quy tắc. Trong một vụ án “Winegate” năm 1974, các thương gia bị phát hiện bán rượu giá rẻ từ vùng Languedoc với nhãn Bordeaux đắt tiền. Năm 1985, khi nho Áo không chín, các nhà sản xuất rượu đã thêm chất “diethylene glycol” để làm ngọt rượu.
 
Trung Quốc hiện là ‘lò rượu nhái’ lớn nhất thế giới, thường có nhãn giả rành rành (thí dụ: họ để nhà sản xuất là “Benfolds” thay vì “Penfolds”). Một cuộc khảo sát phát hiện có hơn 1/4 cửa hàng trên 13 tỉnh bán rượu giả kiểu này. Nên chẳng có gì ngạc nhiên khi trong một buổi nếm thử rượu ở Trung Quốc, một số nhà sản xuất rượu yêu cầu đập vỡ những chai rượu ngon nhất của họ sau khi uống. Cái vỏ chai có nhãn hiệu nổi tiếng và đắt tiền là thứ mà những kẻ lừa đảo luôn thèm thuồng.
 
Cung Đô sưu tầm/biên dịch
Nguồn: “How to spot a fake wine” được đăng trên trang economist.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cầm trên tay một chiếc túi xách có tất cả những điểm đặc trưng của mẫu túi xách Chanel cổ điển: lớp da chần bông sang trọng, phụ kiện vàng lấp lánh, đường khâu tinh tế. Chỉ có một số chi tiết nhỏ khác lạ. Zekrayat Husein nhận xét khi nghiên cứu chiếc túi qua kính hiển vi: “Phần da quá cân đối, và kích thước của mỗi hạt trang trí rất đồng đều.” Bà cho hay, đó là một món đồ giả có chất lượng tốt, nhưng chẳng có giá trị gì khi so với một chiếc Classic Flap chính hiệu từ Chanel giá 11,000 Mỹ Kim.
Nếu có thể kéo dài tuổi thọ hoặc thậm chí là bất tử, liệu chúng ta có thực sự muốn điều đó không? Trong cuốn sách mới có tựa đề “Why We Die: The New Science of Aging and the Quest for Immortality” (Tạm dịch “Tại Sao Chúng Ta Chết: Phát Hiện Mới Về Lão Hóa và Đi Tìm Sự Bất Tử”), Venki Ramakrishnan, khoa học gia về sinh học phân tử đoạt giải Nobel, đã sàng lọc các nghiên cứu từ trong quá khứ đến tiên tiến nhất để tìm hiểu những lý thuyết kéo dài tuổi thọ cùng với những hạn chế thực tế. Trong quá trình tìm hiểu, ông cũng đặt ra các câu hỏi quan trọng về những vấn đề liên quan đến xã hội, chính trị và đạo đức của những nỗ lực đi tìm sự sống vĩnh cửu.
Diễm biến mất. Giáo sư nói với tôi con người không thể tự biến mất. Bà hỏi chủ tiệm tóc kỹ hơn, cô chủ tiệm nói lý do cô khẳng định Diễm “biến mất”, là vì tất cả bạn bè của Diễm ở Bình Tân, ở thị trấn, ở quê của mẹ, đều cùng một thời điểm đột ngột mất liên lạc với Diễm. Không phải là chặn Zalo hay block Facebook, mà đơn giản là biến mất. Chủ tiệm tóc có vài học trò học xong nghề cũng lên mở tiệm hoặc làm thuê gần Bình Tân, Quận 12, là những chị Diễm thường ghé ở nhờ mỗi khi lên Sài Gòn. Họ đều nói họ mất liên lạc với Diễm cùng một thời điểm.
Một cậu bé 16 tuổi nâng nguyên một chiếc Volkswagen lên để cứu hàng xóm bị kẹt dưới xe. Người mẹ dũng cảm chiến đấu với gấu Bắc Cực để bảo vệ con mình. Cô con gái lôi chiếc máy kéo bị lật đè trên người cha ra. Những kỳ tích này được thực hiện nhờ có một lượng adrenaline tăng vọt và giải phóng các hệ thống của cơ thể cũng như năng lực của cơ bắp, vốn chỉ có thể ‘xuất toàn lực’ trong những tình huống căng thẳng cực độ.
Không thể nhìn thấy bằng mắt thường, không có mùi và cũng chẳng có vị, những lượng nhỏ chì (lead) hiện diện trong các vật dụng mà chúng ta sử dụng hàng ngày, trong nhà chúng ta ở, và cả trong nước chúng ta uống. Thậm chí, chì còn xuất hiện trong các bình nước tái sử dụng, như việc phát hiện ra chì trong đáy ly Stanley. Vụ việc đã làm dấy lên nhiều tranh cãi và khơi dậy sự chú ý của người tiêu dùng đối với một vấn đề đã tồn tại từ rất lâu.
Là một khoa học gia nghiên cứu về cảm giác đói và việc kiểm soát cân nặng, Zachary Knight, Giáo sư Sinh lý học, Viện Khoa học thần kinh cơ bản Kavli, Đại học California, San Francisco, quan tâm đến cách bộ não thông báo cho chúng ta biết khi chúng ta đã ăn đủ no. Khi bắt đầu cảm thấy no, chúng ta sẽ ăn chậm lại. Trong nhiều thập niên, các khoa học gia cho rằng sự thay đổi tốc độ này được điều khiển duy nhất bởi các tín hiệu từ dạ dày và ruột đến não. Nhưng một nghiên cứu mới từ phòng thí nghiệm tại UC San Francisco chỉ ra rằng, trên thực tế, có một quá trình khác đang diễn ra, và nó bắt đầu ngay từ khi chúng ta nếm thử thức ăn.
Trong một bài viết về chích ngừa tăng cường cho Covid mùa đông năm nay, tôi đã nhận xét về sự tương đối trong những khuyến cáo của Trung tâm Kiểm soát Bệnh Hoa Kỳ (CDC) về vấn đề chích ngừa Covid mũi booster. Riêng trẻ em thì sao? Khuyến nghị cho họ là gì? CDC khuyến nghị tiêm phòng cho trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên. Mặc dù phân tích của CDC cho thấy trẻ em từ 5 đến 17 tuổi ít có khả năng mắc bệnh nặng do COVID hơn nhiều so với các nhóm tuổi khác, nhưng trẻ em đôi khi vẫn bị bệnh nặng, ngay cả những trẻ không có bệnh lý tiềm ẩn. (Phần lớn trẻ em từ 6 tháng đến 11 tuổi nhập viện từ tháng 1 đến tháng 6 năm nay (2023) đều chưa được chích ngừa Covid).
Trong cuộc sống, tình yêu không chỉ đến từ các mối quan hệ lãng mạn mà còn có thể xuất hiện trong gia đình, bạn bè và các mối quan hệ xã hội khác. Tình yêu và các mối quan hệ lành mạnh đều mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe thể chất và tinh thần của chúng ta, bất kể là tình yêu trong sáng hay lãng mạnh. Theo Stephanie Cacioppo, một nhà khoa học thần kinh tại Đại học Oregon, tình yêu được coi là một nhu cầu sinh học thiết yếu đối với sức khỏe con người, giống như nhu cầu về nước uống, thức ăn và tập thể dục. Mặc dù trái tim thường được coi là "tội phạm", nhưng hầu hết các lợi ích liên quan đến tình yêu đều bắt nguồn từ bộ não, được lập trình tiến hóa để sản xuất và giải phóng hooc-môn khi chúng ta trải qua cảm xúc rung động, phát triển tình cảm và ước mong gắn bó.
Bất kể chúng ta đang đứng ở đâu trên Trái đất, dưới chân chúng ta đều có nước chảy len lỏi bên dưới lòng đất. Nước ngầm cung cấp nước uống cho khoảng một nửa dân số thế giới và gần một nửa lượng nước dùng để tưới, tiêu dùng, giúp giữ cho các dòng sông, ao hồ và đầm lầy tồn tại qua thời kỳ hạn hán. Nước ngầm là nguồn tài nguyên có thể tái tạo, nhưng có thể mất hàng thập niên, thậm chí hàng thế kỷ để một số tầng nước ngầm phục hồi sau khi bị cạn kiệt. Những hiểu biết hiện nay về vấn đề này chủ yếu dựa vào việc ghi lại các đo lường mực nước trong các giếng ở những địa điểm khác nhau.
Gần đây quý vị vừa bị cảm lạnh, cúm, RSV hoặc COVID, bệnh đã qua nhưng mãi vẫn không thể hết ho? Rất nhiều người bị giống như vậy. Triệu chứng này có thể tồn tại trong nhiều tuần sau khi cơ thể chúng ta đã loại bỏ vi-rút. Michael Shiloh, một bác sĩ chuyên nghiên cứu bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Y tế UT Southwestern cho biết những bệnh nhân bị ho thường kể là họ đã bị bịnh từ 8 tuần trước khi đến gặp ông. Ông nói: “Chúng tôi thực sự không thể phát hiện thấy vi rút gì ở những người này nữa nhưng họ vẫn bị ho.”