Hôm nay,  

Sĩ diện người Hà Nội

11/08/202300:00:00(Xem: 3170)

 

Khanh-Truong
Khánh Trường

 
Tuổi già thường sống với dĩ vãng.
Nhiều chuyện tưởng đã vĩnh viễn ra khỏi trí nhớ, thế mà bất chợt bỗng hiện về, có khi mồn một từng chi tiết nhỏ, tựa mới xảy ra hôm qua, hôm kia, có khi nhập nhòa hư thực bất phân.
Chuyện này không lâu, chỉ 23 mươi năm, trước một năm ngày tôi bị tai biến. Nhớ, vì có một chi tiết, lạc đề, nhưng vui.

 
***

Điện thoại reo, tôi nhấc máy, đầu dây bên kia tiếng đàn ông, “Cháu là chồng của Hoàng Tố Mai, sẽ đến đón chú thiếm, khoảng mười lăm phút nữa cháu sẽ có mặt.”
   
Tôi bảo vợ chuẩn bị. Oanh nói, “Có gì đâu mà chuẩn bị, cậu ấy đến mình đi thôi.”
   
Nguyễn Bình Phương, chồng Hoàng Tố Mai, con gái nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến cũng viết văn, tuy chưa gặp lần nào, nhưng qua giọng nói, tôi đoán có lẽ còn trẻ.
   
Đây là lần về Việt Nam thứ hai sau ngày vượt biển. Tôi ra Hà Nội thăm một số người đã từng gặp khi họ sang Mỹ, một số khác chỉ biết nhau qua trao đổi thư từ, email.
   
Tôi gặp Hoàng Ngọc Hiến ở Mỹ khi ông sang dự một hội thảo gì đó lâu quá tôi quên. Ra Hà Nội lần này tôi được HNH mời đến nhà ăn cơm.
   
Hà Nội, lần đầu tôi đến thành phố này. Trong dĩ vãng, từ những ngày còn thiếu niên, qua sách vở và truyền khẩu, Hà Nội trong suy nghĩ tôi là một địa danh lắm truyền kỳ, giai thoại hấp dẫn. Xóm Khâm Thiên, nơi hội tụ của các VNS, nhịp phách, ả đào, bàn đèn, khói thuốc… Sông Hồng vỡ đê, nước dâng cao hung tợn, cuốn trôi, nhận chìm tất cả, người, vật… trong Vỡ Đê (Vũ Trọng Phụng). Cái rét buốt xương của những cảnh đời khốn khổ trong Tôi Kéo Xe (Tam Lang). Và Tản Đà, Nguyễn Tuân… những “tay chơi” một thời. Tiểu thuyết, giai thoại, sự thật hòa trộn khiến vùng đất này, với tôi, như một người con gái kín cổng cao tường tôi luôn mong được có dịp chinh phục. Tôi mang tâm trạng này từ lúc lên phi cơ ở Tân Sơn Nhất đến bấy giờ, trên lầu hai một khách sạn giữa lòng thủ đô. Tôi phóng tầm nhìn ra xa, thành phố này về đêm không xô bồ như trong Nam (tôi đang viết về thời điểm những năm 90 thế kỷ trước. Nghe nói bây giờ HN không kém gì SG, nhất là ở những khu đô thị mới), có lẽ do những con đường không rộng, lượng xe, nhất là xe hơi, ít. Tôi ngước nhìn tán lá rậm đẫm ướt, vừa rồi một trận mưa vừa xối xuống, đã tạnh, khí hậu dễ chịu. Có tiếng Oanh, “Anh ơi, tiếp tân gọi, cậu Phương chắc đã đến.”
   
Hai người đang chờ chúng tôi. Một trẻ, người kia tóc bạc, mặt tròn phúc hậu. Thấy chúng tôi, người trẻ bước đến, “Thưa chú.”
   
“Anh là Nguyễn Bình Phương?”
   
“Vâng ạ.”
   
Phương quay sang ông già, “Bác Tô Hoài. Ba cháu mời cả bác ấy, tiện đường, cháu đón luôn.”

Tôi bắt tay hai người rồi nói với Tô Hoài, “Không ngờ được gặp anh, hân hạnh quá, như hầu hết bọn nhô con, ngày xưa tôi rất mê Dế Mèn Phiêu Lưu Ký.”
   
Tô Hoài cười không nói gì. Ra đến lề đường Phương gọi taxi cho tôi và Oanh. Phương đi xe gắn máy chở Tô Hoài.
   
Phương cho anh tài xế địa chỉ nơi đến và hỏi giá tiền rồi móc ví trả. Tôi vội nói, “Đến nơi, xem đồng hồ, tôi trả, vội gì.”
   
“Để cháu lo, ba cháu mời cô chú mà.”
   
Tô Hoài nói, “Phương nó nói đúng đấy, anh Hiến mời, Phương nó lo là chuyện đương nhiên.”
   
Bữa cơm thân mật, chuyện văn chương, chuyện nhân vật. Chị Hoàng Ngọc Hiến vui vẻ, cởi mở, không quên… kể xấu ông chồng với giọng âu yếm.
   
Sáng hôm sau nhạc sĩ Dương Thụ cùng một cô phóng viên báo Tuổi Trẻ phân bộ phía Bắc đến đưa chúng tôi đi tham quan các thắng tích của Hà Nội và một số nhân vật đang hoạt động văn học nghệ thuật. Suốt hai ngày, mọi chi phí Dương Thụ đều dành trả, với lý do thực hữu lý, chúng tôi là khách. Ngày thứ ba tôi nói muốn gặp Dương Thu Hương, Dương Thụ gọi, DTH tới, chúng tôi cùng đi ăn bún chả chợ Đồng Xuân. Tính nhà văn nữ này không khác con trai, phóng khoáng, mạnh mẽ, gọi tôi bằng mày, xưng tao rất… giang hồ, “Tao trả tiền, mày đừng ỷ mác Việt kiều, lên mặt, không được đâu.”
   
Những ngày ở Hà Nội, tôi gặp không ít anh em văn nghệ, Lê Đạt, Dương Tường, Bảo Ninh, Phạm Xuân Nguyên, Trần Ngọc Tuấn, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Đình Chính (con trai Nguyễn Đình Thi). Trong buổi họp mặt tại nhà Chính tôi đàm đạo với một nhà văn trẻ, anh ấy rất mê tín Phạm Công Thiện, thở ra toàn ngôn ngữ của ông thần này.
   
Còn nhiều, khá nhiều VNS khác tôi không nhớ tên. Tất cả đều có chung mẫu số: sĩ diện.
Nguyễn Huy Thiệp đến đón tôi ở khách sạn, anh mang tặng vợ chồng tôi một hộp trà sâm Đại Hàn, sau đó suốt hai ngày anh đưa chúng tôi thăm viếng nhiều nơi: di tích thành Cổ Loa, lăng mộ Đinh Tiên Hoàng, nơi thờ Lê Long Đĩnh, Thái Hậu Dương Vân Nga, Lê Hoàn… và nhiều chùa chiền, kể cả chùa có Thập Bát La Hán bằng gỗ sơn son thép vàng, lớn như người thật, đặt trên 18 bệ thấp dọc hành lang dẫn vào chánh điện. Hôm ấy mưa lâm râm, se lạnh, sân chùa ẩm ướt, cây sứ già nở hoa trắng rợp, những đài lá trĩu nước dưới ánh sáng âm u, chả hiểu sao lại gợi nhớ chùa Long Giáng trong Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng. Điều đặc biệt, NHT đưa chúng tôi về nhà khoe tượng Quan Âm do chính tay anh thực hiện, tượng lớn, tọa lạc giữa sân. Tôi ngắm, không dám có ý kiến.
   
Trần Ngọc Tuấn (nhà thơ), cho tôi mượn xe hơi, cả tài xế. Vợ anh, đẹp, hình như diễn viên điện ảnh (?) đưa Oanh đi sắm áo dài lụa nổi tiếng của miền Bắc.
   
Lê Đạt vui vẻ, tính xởi lởi. Đúng là Lão Ngoan Đồng. Anh nghèo, chỉ đãi tôi uống cà phê.
Một chuyện lạc đề, nhưng vui.
   
Trong buổi ăn nhậu gồm nhiều VNS, bạn nào đó hỏi, “Nghe đồn anh ăn chơi khét tiếng phải không?”
   
“Trời! Làm gì có chuyện đó!”
   
“Đừng giấu, còn nghe nói anh có phương pháp bế tinh thần sầu. Dạy bọn này đi.”
   
Đã uống khá nhiều, hơi men biến tôi thành tên ăn tục nói phét, “Dễ thôi, khi xả nước đừng tồ tồ một lần mà hãy ngắt khoảng. Luyện tập một thời gian sẽ kéo dài hoặc xuất như ý muốn”.
   
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cười ha hả, “Hahaha… phải đặt tên phương pháp này là Đoạn thủy bí kíp.”
   
Những năm chín mươi Hà Nội còn khá vất vả, thế nhưng người Hà Nội, qua giới VNS, vẫn giữ được truyền thống tôi từng nghe: Sĩ diện.
 
Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có lẽ ngày xưa các bậc sinh thành nên đặt tên tôi là Măng mới hợp với lẽ trời. Tôi khoái măng một cách kỳ lạ trong khi thằng con trai tôi lại ghét thậm tệ. Không biết có phải loại hình cha ăn mặn con khát nước không. Măng làm cách chi tôi cũng thích dù chỉ là thứ măng ngâm trong hũ bán đầy chợ. Nhưng món tôi hẩu nhất là món bún măng vịt. Nghe nhà hàng nào có bún măng vịt là tôi tìm tới, như tìm tới nhà người thương. Bún măng vịt với đĩa gỏi thịt vịt nằm xếp lớp trên lớp rau bên cạnh chén nước mắm gừng trông cứ như là Bá Nha của đôi mắt Tử Kỳ là tôi.
Hãy thử kiểm tra lại ký ức của bạn xem. Trong bộ phim kinh điển The Empire Strikes Back, Darth Vader đã nói gì với Luke Skywalker? Bộ sách thiếu nhi về gia đình nhà gấu có tựa đề là Berenstain Bears hay Berenstein Bears? Và trên logo của thương hiệu phô mai Con Bò Cười, liệu con bò có đeo khuyên mũi? Nếu câu trả lời của bạn là “Luke, ta là cha của con,” “Berenstein,” và “Có,” thì xin chia buồn, ký ức đã đánh lừa bạn. Darth Vader thực chất chưa bao giờ nói câu đó; tên của gia đình gấu luôn được viết là “Berenstain”; và con bò trên logo phô mai nổi tiếng chưa từng đeo khuyên mũi.
Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
Trong một lần tới thăm Hải Học Viện Nha Trang cách đây khoảng vài chục năm, tôi đã thấy một cặp sam sống trong một lồng kính. Phải thú nhận là tôi rất ngạc nhiên. Chúng dính vào nhau, một con trên một con dưới. “Dính như sam” thì tôi thuộc nằm lòng nhưng không ngờ chúng dính cứng như vậy. Dò hỏi nhân viên của Viện, tôi được cho biết hai con dính vào nhau như vậy suốt ngày đêm. Con đực kính thước chỉ nhỏ bằng nửa con cái luôn nằm dính trên lưng con cái. Cứ như mẹ cõng con đi chơi. Thân nam nhi mà coi bộ lép vế. Đeo dính sát sạt như vậy ngày đêm thì teo tắt là cái chắc. Vết đôi chân con đực bám vào hằn rõ trên mai con cái. Cùng sống chết với nhau như vậy nên ngư dân thường bắt được cả cặp. Nếu chỉ bắt được một con, gọi là sam độc, họ thả trở lại biển. Chẳng phải nhân nghĩa chi nhưng vì họ không bán được cho người ta làm thịt. Thực khách luôn mua làm thịt cả cặp, ăn một con họ tin rằng sẽ bị độc. Vậy sam sống cùng sống, chết cùng chết, lúc nào cũng dính nhau. Như…sam!
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.