Hôm nay,  

Đúng, sai

18/08/202300:00:00(Xem: 3186)

Khanh-Truong-5
Khánh Trường
 
Hai hôm trước một cô em, cũng cầm bút, đến thăm, nhân tiện đề nghị, nếu sức khỏe không cho phép tôi gõ chữ thì cô ấy sẽ giúp, tôi chỉ cần nói qua băng ghi âm, cô em chép lại rồi giao cho tôi nhuận sắc.
   
Nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, qua trao đổi riêng, vẫn nhiều lần khuyên tôi nên viết hồi ký.
   
Theo hai người, do một thời chủ trương tạp chí Hợp Lưu, tôi có điều kiện tiếp cận và rành rất nhiều chuyện của giới văn nghệ sĩ cũng như văn học hải ngoại lẫn trong nước, nếu tôi không làm thì rồi mọi sự cố sẽ trôi vào lãng quên, thiệt thòi cho văn học Việt Nam, uổng lắm.
   
Thực ra dù sức khỏe mỗi ngày thêm tệ nhưng nếu cố tôi cũng có thể tiếp tục bày tỏ mọi chuyện qua bàn phím, ngặt nỗi, vì nhiều lý do, tôi chả còn quan tâm đến bất cứ chuyện gì, nhất là những chuyện đã xảy ra trên dưới ba mươi năm trước. Ba mươi năm, thời gian đủ dài để phần lớn nhân sự đã vùi sâu trong đất, số ít còn lại thì gần đất xa trời hay đã rời bỏ cuộc chơi. Mọi chuyện, từ văn chương nghệ thuật đến thời thế, hướng nhìn… đổi thay từng ngày, từng tháng, huống gì khoảng cách thời gian rộng dài như đã! Ba mươi năm, nhiều thế hệ kế tục ra đời, càng lúc càng gần như không hệ lụy với quá khứ. Khơi lại đống tro tàn đã nguội lạnh, dù chỉ để làm chứng tích, phỏng ích gì?! Thời đại mới, với phương tiện truyền thông hiện đại, mọi sự kiện, sự việc, nhìn từ nhiều phía, chủ quan lẫn khách quan, đầy ngập trên mạng, chỉ vài thao tác giản dị, là ai cũng có thể tiếp cận. Tiếng nói của tôi chẳng những không làm giàu thêm kho tư liệu vốn đã mênh mông, ngược lại, do quan điểm riêng khó tránh khỏi, chỉ tổ làm mọi chuyện vốn đã rối mù càng thêm rối.
   
Lợi bất cập hại!
   
Hơn thế, tôi sống đủ lâu để thấy, như người bạn vong niên của tôi, nhà văn Mai Thảo, đã thấy, mọi chuyện đều “chả ra cái đếch gì”. Tất thảy, từ con người, xã hội, quan điểm, biến cố lịch sử… cuối cùng đều... chả ra cái đếch gì! Trời vẫn xanh, mây trắng vẫn bay, cây vẫn đúng mùa đâm chồi, nở hoa, kết trái, người vẫn hết thế hệ này sang thế hệ khác, thể chế kia tàn, chế độ nọ thay, quân chủ suy vong, tư bản lên ngôi, cộng sản ra đời… Chuyện có thể đúng vài mươi năm, thậm chí vài trăm năm, hay lâu hơn, vài ngàn năm, nhưng rồi sẽ sai vào thời kỳ nào đó. Chúng ta ngày nay ai cũng biết trái đất tròn, thế mà đã có lúc người ta xác quyết trái đất phẳng như cái bánh tráng, ai không đồng ý sẽ lập tức bị đưa lên giàn hỏa! Đâu là chân lý đích thực? Vào thời kỳ quân chủ thiên tử là chủ nhân của giang sơn, dân đen là con cái, ông “con trời” cho sống được sống, bảo chết phải chết. Cũng dưới chế độ quân chủ, đàn ông được quyền năm thê bảy thiếp, đàn bà xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, nếu chửa hoang sẽ bị gọt tóc bôi vôi, ngoại tình sẽ bị bỏ rọ thả trôi sông. Nay, tổng thống nếu lỗi, nhẹ: bị đàn hạch, về vườn trồng rau nuôi gà, hú hí với đấng hiền thê. Nặng: nằm nhà đá nhẩn nha gỡ lịch. Và nam nữ bình quyền, phái “yếu” ngang hàng với các đấng mày râu trong mọi lĩnh vực, đàn bà làm tổng thống, thủ tướng, tư lệnh quân đội, chuyện thường. Tôi đã đọc đâu đó ý này: Điều duy nhất thường hằng là lẽ vô thường, mọi chuyện đã, đang và sẽ đổi thay. Cũng có nghĩa không có gì đúng hoặc sai vĩnh viễn, đúng sai tùy thuộc vào quan niệm, phong tục, tập quán từng vùng miền, từng dân tộc, từng thời điểm, từng bối cảnh…
   

Ở Tây Tạng, đàn bà được quyền có nhiều chồng, em trai sẽ thay vị trí của anh nếu ông ta qua đời. Phong tục này bắt nguồn từ quan niệm không muốn tài sản của gia tộc rơi vào tay người khác, Ở Alasca, khách đến nhà nếu ngủ lại đêm, vợ sẽ chung giường với khách. Lý do: thời tiết nơi này rất khắc nghiệt, luôn dưới độ âm, vợ là cái “mền da” giúp khách “lên mây” để sau đó mệt nhoài say giấc trong vòng tay ấm áp của nữ gia chủ. Tại một vài bộ lạc ở Châu Phi, trẻ gái buộc phải cắt âm hạch, để sau này lớn lên khỏi tò te rí ré, hoặc không được xem là trưởng thành nếu chưa mất đi cái mà một thời mọi dân tộc, không loại trừ Đông Tây cực kỳ coi trọng, ví như bảo vật giá đáng nghìn vàng: tiết trinh! Đại Hàn, một trong hai con rồng của châu Á, chỉ đứng sau Nhật, được xem là quốc gia văn minh tiến bộ về mọi mặt, thế nhưng ở nhiều làng mạc nông thôn chuyện anh em  chú bác thành phu thê là chuyện “thường ngày ở huyện”, dù qua truyền thông, báo chí, sách vở, kể cả giáo dục học đường người ta đã cảnh báo hôn nhân cận huyết có thể mang đến nhiều hậu quả tai hại, trẻ chậm phát triển, thậm chí xác suất dị tật, quái thai rất cao. Tại một quốc gia Trung Đông nhỏ bé tôi không nhớ tên, dân số chỉ trên một triệu hai trăm ngàn, rất giàu có và tiên tiến, nhờ tài nguyên dầu mỏ, GDP bình quân đầu người cao ngất ngưởng (nếu tôi nhớ không lầm hình như trên 50.000 đô một năm). Hầu hết công dân có mức sống no đủ trên trung bình, y tế và giáo dục miễn phí, di chuyển trên những chiếc xe hơi đắt giá cáo cạnh, ngụ cư trong những ngôi nhà trần cao cửa rộng, tiện nghi hiện đại, máy điều hòa không khí hoạt động quanh năm, mùa hè mát lạnh, mùa đông ấm áp, do chính phủ cấp miễn phí, hoặc chỉ trả tượng trưng một đô la. Đất nước này xem chuyện dựng vợ gã chồng trong quan hệ cận huyết là chuyện tất nhiên, không việc gì phải bàn cãi lôi thôi. Ngay tại Giao Chỉ ta, vào thời nhà Trần, để duy trì quyền lực của dòng họ hầu không lọt vào tay ngoại tộc, hôn nhân cận huyết cũng được chấp thuận. Đức Trần Hưng Đạo mà hậu thế tôn xưng là bậc Thánh vì đức độ và võ công tái thế, hai lần chiến thắng giặc Nguyên, lấy cô ruột của mình làm vợ. Ngày nay nhiều dân tộc thiểu số ở miền cao miền xa vẫn xem hôn nhân cận huyết là tập tục cần phải duy trì, anh em ruột được quyền lấy nhau thoải mái.
   
Còn nhiều nữa những quốc gia thuộc châu Phi, châu Á, Trung, Cận Đông… cho đến bây giờ vẫn nhất định bảo lưu những tập quán mà chúng ta xem là lạc hậu, phi đạo đức, phản khoa học.

Tóm lại, phong tục, tập quán thường phát sinh do điều kiện xã hội, thổ nhưỡng, khí hậu, thời điểm...  Nếu dùng cái nhìn của vùng miền hay lãnh thổ này phê phán phong tục tập quán của đất nước nọ e sẽ khiên cưỡng.
   
Đâu là chân lý bất di?
   
Dân tộc ta và nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á như Trung Hoa, Đại Hàn, Thái Lan, Phi Luật Tân, Indonesia… xem cơm là món chính trong bữa ăn. Chủ yếu của dân Mễ là các loại đậu và bắp. Phương Tây là bánh mì làm từ lúa mạch và thịt gia cầm, tôm cá. Món mắm tôm, mắm nêm, mắm cái đối với chúng ta sao mà thơm… bát ngát, ăn bún riêu nếu thiếu tí mắm ruốc nào khác chi đóng thùng sơ mi cà vạt quần tây bảnh chọe nhưng lại lết thết đôi dép râu cụ Hồ! Đặc sản mắm Bò Hóc của Campuchia người phương Tây nghe mùi đã bịt mũi nôn ọe, hét toáng, sao thối thế!
   
Tiêu chuẩn nào để đánh giá chuyện đúng, sai, phải, trái?
   
Những câu hỏi đã, đang và sẽ không bao giờ có giải đáp thỏa đáng.
 
– Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi chưa bị bắt, và bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần – có lần – Nguyễn Thúy Hạnh kể lại một câu chuyện hơi tếu táo (“Chuyện Một Người Bất Đồng Chính Kiến”) nhưng nghe rồi tôi lại thoáng buồn buồn: Bác tên là Nguyễn Thế Đàm, người từng hai lần bị tống vào hoả lò cũ và hoả lò mới, rồi hai lần bị đẩy vào trại tâm thần, Trâu Quỳ và Thường Tín. “Tôi khẳng định ông ấy bị điên. Cả thế giới người ta thấy mà lặng im ko nói, chỉ một mình ông ấy nói ra, thế chả là điên thì là gì?”Giám đốc bệnh viện tâm thần thời đó đã nói vậy khi vợ bác khăng khăng chồng mình ko bị điên. Vậy bác Đàm “nói” cái gì? Đó là những truyền đơn nhằm vào ông Hồ, mục đích để ông Hồ ko còn là thánh, trong đó thường gọi ông Hồ là “ngu Hồ”, và rằng chủ nghĩa Mác là phản động… Thời những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước mà đi rải truyền đơn hạ bệ lãnh tụ, lại còn viết đủ cả tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại của mình vào truyền đơn rồi đi phát tận tay từng người thì quả đúng là vuốt râu hùm.
Từ Montreal Canada đến Detroit mất hai tiếng rưỡi, rồi từ Detroit bang Michigan Hoa Kỳ đến Nhật Bản khoảng 13 tiếng rưỡi, dù máy bay có rộng rãi cách mấy, tiện nghi bao nhiêu đi nữa cũng làm tôi không sao chợp mắt được; trên máy bay chúng tôi được phục vụ một bữa chính gồm khoai tây nghiền với gà hầm cà chua thơm ngon, một salad, một thanh cheese, một desert, một chai rượu đỏ hoặc trắng tùy khách chọn, vừa ăn uống vừa coi hết film này đến film khác; khoảng 3,4 tiếng sau lại cho ăn tiếp lót dạ một pizza với sauce cà chua cá hồi, đồ uống nước cam, coke hay trà thì được phục vụ liên tục. Sau bữa ăn mọi người ai nấy dập dìu viếng thăm căn phòng nhỏ cuối máy bay, xếp hàng dài chờ phiên mình; mục này cũng làm cho mọi người đứng lên di chuyển, vươn vai, duỗi chân cho đỡ mệt mỏi.
Lúc sau này tôi bỗng thích nghịch ngợm chút đỉnh. Nghịch ngợm là cái thú của thời con nít với những côn trùng thân yêu như dế mèn, chuồn chuồn, đom đóm, ve sầu, chim sáo, chào mào. Sau khi phổ biến ba bài Ve Sầu, Chuồn Chuồn và Đom Đóm, các ông bạn già của tôi coi bộ phấn khích như sống lại tuổi thơ. Một ông hỏi tôi đã viết về bươm bướm chưa? Tôi ngẩn người nhớ lại và cho ông bạn biết là bướm không biết bay thì viết rồi, bướm bay thì chưa. Ông này vốn chân chỉ hạt bột, chỉ thích bướm bay, để ông nhớ tới thời đã mất.
**01/10 -- Bùi Diễm (01/10/1923– 24/10/2021) là một chính khách Việt Nam. Ông nắm giữ chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ nhiệm kỳ từ năm 1967 đến năm 1972. --1908 - Mẫu xe T của Henry Ford, một "chiếc xe phổ thông" được thiết kế cho đại chúng, được bán lần đầu tiên. -- 1938 - Quân đội của Hitler chiếm đóng phần Sudetenland của Tiệp Khắc. Trong nỗ lực tránh chiến tranh, các nhà lãnh đạo Anh và Pháp đã đồng ý nhượng khu vực nói tiếng Đức cho Hitler, người sau đó đã phá vỡ thỏa thuận và chiếm đóng toàn bộ Tiệp Khắc.
Hãy thử nhớ lại lần gần đây nhất quý vị viết ghi chú, một ghi chú ngắn hoặc danh sách mua sắm chẳng hạn. Có thể quý vị đã không dùng tới giấy và viết. Hơn mười năm qua, bàn phím và màn hình đã lặng lẽ thay thế chữ viết tay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, từ trường, lớp cho đến các cuộc họp hành. Thậm chí, một số trường học trên thế giới đã ngừng hoàn toàn việc rèn chữ viết (cursive).
Tôi là dân Huế chính gốc 100% tức là dân Huế “chay”, Huế rất chi là Huế, Huế từ đầu đến chân, Huế từ trong ra ngoài nên phát âm các chữ có dấu HỎI-NGÃ rất tùy tiện, phóng túng, hoàn toàn không giống người dân ở miền Bắc của Cố Đô Thăng Long, mặc dù Huế của chúng tôi cũng là Cố Đô Ngàn Năm Văn Vật. Do đó dân Huế chúng tôi sợ nhất là những chữ có dấu HỎI-NGÃ lúc viết bài thi chính tả, dù đã học thật kỹ cuốn sách viết về luật HỎI, NGÃ của Thầy Lê Hiếu Kính.
“Cò” đây chẳng phải “Con Cò mày đi ăn đêm” mà cũng chẳng phải “Cái Cò súng của các ông”, không phải, giời ạ. Cò-cảnh-sát hay Cò-mồi lại càng không phải nốt. Cò đây là Thầy Cò. Đúng ra phải gọi là Cô Cò hoặc Bà Cò thì chính xác hơn, nhưng trong ngôn ngữ tiếng Việt tôi chưa thấy ai gọi như thế bao giờ, nghe nó tréo ngoe, nó chỏi tai thế nào ấy. Có lẽ tại cái “nghề Cò” từ hồi nảo hồi nào chỉ toàn do các ông đảm nhiệm. Nhưng thời buổi bây giờ, thời buổi mà các bà các cô có thừa bản lĩnh để xâm chiếm hầu hết các lãnh vực trong nhà (thì đã đành) cũng như ngoài phố thì chắc chắn đã có nhiều Cò phái nữ, mà tôi là một thí dụ điển hình.
Từ khi sinh ra và biết nhận thức thì nhớ/quên gắn liền với cuộc sống hằng ngày cho đến khi lìa trần. Phân Tâm Học ((Psychoanalysis) đã giải thích về nhớ/quên theo trình tự thời gian từ tuổi thơ đến tuổi già nhưng thực tế nó không hoàn toàn như vậy mà tùy theo hoàn cảnh, môi trường sống, giáo dục, xã hội… biến động tâm lý ảnh hưởng đến từng cá nhân với não bộ.
Hồi đó chúng tôi học triết lớp 12C, chúng tôi học với cô Chu Kim Long và có tuần với thầy Vĩnh Để. Cả hai giáo sư của chúng tôi chia giờ ra giảng dậy về tâm lý học rồi phân tâm học về vô thức của triết gia Simon Freud. Phần lý luận học và đạo đức học thì dễ dàng hơn. Riêng phần tâm lý học, nhất là tâm lý học ngôi thứ ba khúc mắc, ở phần dằng co giữa ý thức và vô thức… thành ra bài học bài giảng làm chúng tôi điên đầu và cô, thầy chúng tôi cũng khô cổ họng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.