Hôm nay,  

Ma

25/08/202300:00:00(Xem: 3519)

Logo cho fb  
Hầu hết mọi người già thường mắc phải chứng quên những chuyện gần, nhưng lại nhớ những chuyện xưa, có khi hàng sáu bảy chục năm trước. May mắn (hay xui xẻo?), tôi có một trí nhớ khá tốt, dù gần hay xa tôi đều không quên. Tuy nhiên tôi lại vướng phải nhược điểm là chỉ nhớ sự việc nhưng lại không nhớ thời điểm. Nhược điểm này theo tôi từ ngày thơ trẻ cho đến hôm nay. Khác hẳn một vài người quen, chả hạn nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh có một trí nhớ xuất chúng về những con số. Số điện thoại, số nhà của ai đó, chỉ nhìn hoặc nghe qua một lần là ghim ngay vào não, nhiều năm sau, hỏi, anh trả lời vanh vách. Nhà văn Cung Tích Biền cũng không kém, xuất thân là giáo sư dạy sử, ngoài những chi tiết liên quan đến chuyên môn như tên, đế hiệu các vị vua, ngày lên ngôi, ngày chết, những hành trạng của họ suốt thời gian trị vì, và mọi biến cố lịch sử… trải dài từ thời lập quốc, bốn nghìn năm trước, đến bây giờ. Như Hoàng Khởi Phong, anh nhớ rõ mọi con số, kể cả những chi tiết liên quan.
   
Trong cơn đại dịch Covid-19 đã hoành hành, nhờ vaccine, căn bệnh được kiểm soát tốt, tuy vậy tất cả chúng ta đều ít nhiều bị tổn thương. Người thì mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất con, mất họ hàng, bè bạn… Kẻ bị áo cơm quật đập tơi tả. Kẻ khác công ăn việc làm lụn bại... Đều là những chuyện buồn.
   
Đã buồn lại phải nghe điều bất ưng, khác nào lấy dao nhọn khoét thêm vào vết thương còn tươm máu?
   
Cho nên tôi sẽ không đề cập đến chuyện buồn làm chi, có điều chuyện tôi sắp kể hẳn nhiều người khó tính sẽ bảo tôi thuộc thành phần vô đạo đức.
   
Đành chịu, không thể vừa lòng tất cả!
   
Ngày ấy tôi mới ngoài hai mươi, không đẹp trai, tài hoa và chữ nghĩa bề bề như một số người tôi may mắn quen biết. Được cái tôi không ghét bỏ ai bao giờ, nhất là với phái nữ tôi luôn nhường nhịn và… dễ thương (vì thế bạn bè vẫn cho rằng tôi thuộc trường phái dại gái!) Xét chung, tôi vô hại. Tuy vậy, khách quan nhận xét, tôi cũng có nhược điểm là hơi nóng tính. Phàm những người nóng tính thường phổi bò, ruột để ngoài da, khi giận sùng sục tựa nước sôi, song nguội ngay như bị ném vào phòng lạnh! Nhược điểm này xét mặt nào đó, lại là ưu điểm, loại người như tôi chắc chắn không mưu mô quỉ kế, khỏi mất công đề phòng. Có lẽ nhờ thế phái nữ, vốn rất đa nghi song dễ mềm lòng, thường dành cho tôi nhiều thiện cảm.
   
Và họ cụ thể thiện cảm ấy bằng cách cho không biếu không những quả tình lãng mạn.
   
Chuyện tôi sắp kể, có phần… liêu trai chí dị. Tuy nhiên biết đâu sẽ giúp mọi người một phút quên đi bao nhiêu bất ưng trong cõi nhân sinh lắm đa đoan này.
   
Sau nhiều tuần ra sức tán tỉnh, cuối cùng tôi thuyết phục, đưa được một nàng xuống miệt Thủ Thiêm. Mặt ngoài: thư giãn, tạm tách lìa khỏi cảnh xô bồ và khói xe, tiếng động của thành phố; Mặt trong: (chỉ mình tôi biết) tạo điều kiện để thừa cơ… nước đục thả câu! Chao ôi, cho đến bây giờ tôi vẫn chưa quên cảnh đắm đuối dưới bóng sầu riêng, cạnh dòng kinh nở đầy hoa súng. Thơ mộng và… hiện thực như phim diễm tình Romeo and Juliet cộng mùi tình dục hiện sinh kiểu  Một Chút Mặt Trời Trong Nước Lạnh.
   

Tối, tôi đưa nàng về. Nhà nàng ở ven đô, nếu đi đường lớn mất chừng sáu mươi phút, nếu sử dụng đường tắt chỉ ngót nửa giờ, khổ nỗi đó là một hương lộ đầy ổ gà, băng ngang bãi tha ma hoang vắng, hầu như ít ai dám đi vào ban đêm. Để tỏ ra ta đây thừa đởm lược, tôi đề nghị,

“Mình về đường tắt nhé?”
Nàng la bai bải, “Đừng anh ơi, em sợ.”
Tôi hùng hổ, “Có anh đây, sợ gì.”
Nàng bấu mạnh vai tôi, “Nghe nói nghĩa địa này nhiều ma lắm.”
“Ma với quỉ, nhảm nhí.”

Mặc cho em cản ngăn, tôi vẫn ngoan cố rẽ vào.

Đường tối, bụi bờ nhấp nhô, mồ mả ngổn ngang cao thấp vô trật tự. Những bụi xương rồng tựa những bàn tay vói lên từ lòng đất. Khóm lau bông trắng ngả nghiêng trong gió trông giống những mái đầu bạc vật vã khóc than. Hàng vạn đốm lân tinh lượn lờ trên những phần mộ. Nàng ôm cứng tôi, lạc giọng, “Anh ơi… em sợ.”
   
Tôi không trả lời, chăm chú điều khiển chiếc honda vượt qua khoảng đường xấu. Xe vào đến trung tâm bãi tha ma thì trời chuyển mưa, mây đen ùn ùn phủ kín bầu trời, sấm chớp đì đùng. Thoáng chốc mưa ập xuống, xối xả. Nàng nói như muốn khóc, “Chết rồi anh ơi, làm sao?” Tôi đảo mắt, một nhà mồ lớn xây kiên cố bằng bê-tông có mái che rộng, chỉ cách lộ non mười mét, tuy bề thế nhưng hình như không người chăm sóc, lau sậy um tùm. Vừa cho xe tấp vào, tôi vừa nói, “Mình trú dưới mái che này.”
   
Nàng mếu máo, “Em sợ!”
Tôi trấn an, “Đã bảo có anh, không việc gì phải sợ.”
Tôi dìu em ngồi xuống gờ xi-măng cạnh mộ bia, nơi khô ráo và khuất gió. Em ôm chặt tôi, luôn mồm, “Em sợ…”

Tôi, ngày ấy, rất vô thần. Không tin những gì nếu không sờ được bằng tay, nhìn thấy tận mắt. Cũng có nghĩa chuyện ma quỉ, với tôi, chỉ là sản phẩm tưởng tượng, nhằm hù dọa trẻ con và bọn yếu bóng vía, nên thay vì sợ tôi lại cảm thấy máu chảy loạn trong huyết quản khi được nàng ôm chặt. Da thịt nàng mát lạnh, mùi thơm con gái xộc vào mũi. Tôi ngất ngư, con lợn lòng vùng lên đòi quyền tự trị. Hai bàn tay tôi chu du khắp mọi  ngõ nghách trên body nàng.

“Đừng anh, em sợ!”
Điệp khúc vẫn không ngừng mãi đến khi tôi vật em ngã ngửa trên tấm “đanh” đậy mộ phần, nàng lắp bắp, “Đừng… anh…”
Mặc. Nàng co giật tựa động kinh, tiếng kêu thấp dần cường độ. Tôi trườn lên, thì thầm, “Anh yêu nhé?”
Nàng ậm ự, lặp lại điệp khúc, “Thôi anh… em sợ…”
Tuy vậy, nàng không chống cự quyết liệt, tôi chiếm cứ được mục tiêu tương đối dễ.
Đến lúc trong vô thức, nàng ôm siết, nhưng thay vì “anh ơi, em sợ.” Bây giờ nàng bỏ bớt hai từ “em sợ”, chỉ giữ hai từ “anh ơi… anh ơi…” Tôi nói như máy, “Anh yêu em.”

Tiếng mưa rì rào trên mái nhà mồ, tiếng gió gào rú, và những đốm lửa lập lòe ngoài nhấp nhô mồ mả khuất lấp giữa cỏ cây, lau sậy, tiếng sét đì đùng lóe sáng trên bầu trời vần vũ mây đen tạo thành một âm thanh, hoạt cảnh vừa ma quái vừa quyến rũ. Đến một lúc huyết quản rần rật dưới da, và rồi… tôi thốt kêu, “Cưng ơi…”

Nàng ôm tôi chặt hơn, hổn hển, “Anh… anh… anh… anh…”

Một lúc sau, cơn “địa chấn” dần hạ, nàng bừng tỉnh, nhẹ đẩy tôi ra, ngồi dậy, nhìn quanh hoạt cảnh rất liêu trai chí dị, vẻ sợ hãi, “Tội lỗi quá anh ơi!”

Tôi nhớ chân dung người đàn ông quá cố có nụ cười hiền đã nhìn thấy qua tia sấm chớp khi đang hành sự, lòng hơi lung lạc, tôi thầm khấn, “Mong ông linh thiêng thứ lỗi, ông biết mà, làm sao đừng được.”

Một con chồn từ đám lau sậy phóng ra, hai con mắt rực sáng tựa hai đốm lân tinh nhìn chúng tôi hồi lâu rồi lủi nhanh, mất hút phía sau bia mộ. Nàng lại ôm tôi, “Anh ơi… em sợ…”
 
– Khánh Trường

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi chưa bị bắt, và bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần – có lần – Nguyễn Thúy Hạnh kể lại một câu chuyện hơi tếu táo (“Chuyện Một Người Bất Đồng Chính Kiến”) nhưng nghe rồi tôi lại thoáng buồn buồn: Bác tên là Nguyễn Thế Đàm, người từng hai lần bị tống vào hoả lò cũ và hoả lò mới, rồi hai lần bị đẩy vào trại tâm thần, Trâu Quỳ và Thường Tín. “Tôi khẳng định ông ấy bị điên. Cả thế giới người ta thấy mà lặng im ko nói, chỉ một mình ông ấy nói ra, thế chả là điên thì là gì?”Giám đốc bệnh viện tâm thần thời đó đã nói vậy khi vợ bác khăng khăng chồng mình ko bị điên. Vậy bác Đàm “nói” cái gì? Đó là những truyền đơn nhằm vào ông Hồ, mục đích để ông Hồ ko còn là thánh, trong đó thường gọi ông Hồ là “ngu Hồ”, và rằng chủ nghĩa Mác là phản động… Thời những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước mà đi rải truyền đơn hạ bệ lãnh tụ, lại còn viết đủ cả tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại của mình vào truyền đơn rồi đi phát tận tay từng người thì quả đúng là vuốt râu hùm.
Từ Montreal Canada đến Detroit mất hai tiếng rưỡi, rồi từ Detroit bang Michigan Hoa Kỳ đến Nhật Bản khoảng 13 tiếng rưỡi, dù máy bay có rộng rãi cách mấy, tiện nghi bao nhiêu đi nữa cũng làm tôi không sao chợp mắt được; trên máy bay chúng tôi được phục vụ một bữa chính gồm khoai tây nghiền với gà hầm cà chua thơm ngon, một salad, một thanh cheese, một desert, một chai rượu đỏ hoặc trắng tùy khách chọn, vừa ăn uống vừa coi hết film này đến film khác; khoảng 3,4 tiếng sau lại cho ăn tiếp lót dạ một pizza với sauce cà chua cá hồi, đồ uống nước cam, coke hay trà thì được phục vụ liên tục. Sau bữa ăn mọi người ai nấy dập dìu viếng thăm căn phòng nhỏ cuối máy bay, xếp hàng dài chờ phiên mình; mục này cũng làm cho mọi người đứng lên di chuyển, vươn vai, duỗi chân cho đỡ mệt mỏi.
Lúc sau này tôi bỗng thích nghịch ngợm chút đỉnh. Nghịch ngợm là cái thú của thời con nít với những côn trùng thân yêu như dế mèn, chuồn chuồn, đom đóm, ve sầu, chim sáo, chào mào. Sau khi phổ biến ba bài Ve Sầu, Chuồn Chuồn và Đom Đóm, các ông bạn già của tôi coi bộ phấn khích như sống lại tuổi thơ. Một ông hỏi tôi đã viết về bươm bướm chưa? Tôi ngẩn người nhớ lại và cho ông bạn biết là bướm không biết bay thì viết rồi, bướm bay thì chưa. Ông này vốn chân chỉ hạt bột, chỉ thích bướm bay, để ông nhớ tới thời đã mất.
**01/10 -- Bùi Diễm (01/10/1923– 24/10/2021) là một chính khách Việt Nam. Ông nắm giữ chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ nhiệm kỳ từ năm 1967 đến năm 1972. --1908 - Mẫu xe T của Henry Ford, một "chiếc xe phổ thông" được thiết kế cho đại chúng, được bán lần đầu tiên. -- 1938 - Quân đội của Hitler chiếm đóng phần Sudetenland của Tiệp Khắc. Trong nỗ lực tránh chiến tranh, các nhà lãnh đạo Anh và Pháp đã đồng ý nhượng khu vực nói tiếng Đức cho Hitler, người sau đó đã phá vỡ thỏa thuận và chiếm đóng toàn bộ Tiệp Khắc.
Hãy thử nhớ lại lần gần đây nhất quý vị viết ghi chú, một ghi chú ngắn hoặc danh sách mua sắm chẳng hạn. Có thể quý vị đã không dùng tới giấy và viết. Hơn mười năm qua, bàn phím và màn hình đã lặng lẽ thay thế chữ viết tay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, từ trường, lớp cho đến các cuộc họp hành. Thậm chí, một số trường học trên thế giới đã ngừng hoàn toàn việc rèn chữ viết (cursive).
Tôi là dân Huế chính gốc 100% tức là dân Huế “chay”, Huế rất chi là Huế, Huế từ đầu đến chân, Huế từ trong ra ngoài nên phát âm các chữ có dấu HỎI-NGÃ rất tùy tiện, phóng túng, hoàn toàn không giống người dân ở miền Bắc của Cố Đô Thăng Long, mặc dù Huế của chúng tôi cũng là Cố Đô Ngàn Năm Văn Vật. Do đó dân Huế chúng tôi sợ nhất là những chữ có dấu HỎI-NGÃ lúc viết bài thi chính tả, dù đã học thật kỹ cuốn sách viết về luật HỎI, NGÃ của Thầy Lê Hiếu Kính.
“Cò” đây chẳng phải “Con Cò mày đi ăn đêm” mà cũng chẳng phải “Cái Cò súng của các ông”, không phải, giời ạ. Cò-cảnh-sát hay Cò-mồi lại càng không phải nốt. Cò đây là Thầy Cò. Đúng ra phải gọi là Cô Cò hoặc Bà Cò thì chính xác hơn, nhưng trong ngôn ngữ tiếng Việt tôi chưa thấy ai gọi như thế bao giờ, nghe nó tréo ngoe, nó chỏi tai thế nào ấy. Có lẽ tại cái “nghề Cò” từ hồi nảo hồi nào chỉ toàn do các ông đảm nhiệm. Nhưng thời buổi bây giờ, thời buổi mà các bà các cô có thừa bản lĩnh để xâm chiếm hầu hết các lãnh vực trong nhà (thì đã đành) cũng như ngoài phố thì chắc chắn đã có nhiều Cò phái nữ, mà tôi là một thí dụ điển hình.
Từ khi sinh ra và biết nhận thức thì nhớ/quên gắn liền với cuộc sống hằng ngày cho đến khi lìa trần. Phân Tâm Học ((Psychoanalysis) đã giải thích về nhớ/quên theo trình tự thời gian từ tuổi thơ đến tuổi già nhưng thực tế nó không hoàn toàn như vậy mà tùy theo hoàn cảnh, môi trường sống, giáo dục, xã hội… biến động tâm lý ảnh hưởng đến từng cá nhân với não bộ.
Hồi đó chúng tôi học triết lớp 12C, chúng tôi học với cô Chu Kim Long và có tuần với thầy Vĩnh Để. Cả hai giáo sư của chúng tôi chia giờ ra giảng dậy về tâm lý học rồi phân tâm học về vô thức của triết gia Simon Freud. Phần lý luận học và đạo đức học thì dễ dàng hơn. Riêng phần tâm lý học, nhất là tâm lý học ngôi thứ ba khúc mắc, ở phần dằng co giữa ý thức và vô thức… thành ra bài học bài giảng làm chúng tôi điên đầu và cô, thầy chúng tôi cũng khô cổ họng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.