Hôm nay,  

Nude dance

01/09/202300:00:00(Xem: 3544)

Logo cho fb
 
Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1994, dưới thời Bill Clinton. Khởi từ dấu mốc đó Việt Nam dần dần thân thiện hơn với người anh em “sen đầm đế quốc” này, thời kỳ ngăn sông cách chợ đã được khai thông, nhiều người xuất ngoại thăm thân nhân, du lịch hoặc công tác. Giới văn nghệ sĩ không ngoại lệ.
 
Thuở đó gần như tháng nào tôi cũng đón ít nhất một văn, thi, nhạc, họa… sĩ. Phải chăng tại fake news, một người nhà quê như tôi bỗng biến thành “tay chơi” có số má dưới mắt nhìn các vị cầm cọ, cầm bút trong nước?
 
Để mở rộng tầm mắt, các đấng này, không loại trừ phái tính, có mẫu số chung: thích coi nude dance. Từ già, trẻ, viết văn, làm thơ đầu bù tóc rối đến giới biên khảo, phê bình văn học cao đạo, nghiêm túc, sử dụng tiếng Tây tiếng Mỹ lưu loát, thường rỉ tai nhờ tôi hướng dẫn thăm viếng các… “vùng oanh kích tự do” mà các bậc đạo hạnh như thiền sư Nguyên Giác Phan Tấn Hải, bạn tôi, vốn rất dị ứng!
 
Có lần tôi hướng dẫn một nhà thơ nữ lên Los Angeles xem nude dance. Em vũ công người Mỹ, cao to quá khổ nếu so với phe ta, khỏa thân 100%, biểu diễn một màn vũ thập phần… phi đạo đức, nếu xét theo quan niệm của văn hóa phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng. Lúc em Mỹ di chuyển sang chỗ khác, nàng xoay qua tôi chặt lưỡi: 

"Khiếp!

Tôi mỉm cười tỏ vẻ đồng tình.

Lần khác, một nữ văn sĩ trẻ (vào thời điểm bấy giờ, nay, có lẽ gần sáu mươi) cũng đòi “xem cho biết”. Hộp đêm ở thành phố kế, gần biển, nhỏ hơn trên Los nhưng cũng sôi nổi không kém. Khác nữ thi nhân, nhà văn trẻ xem chừng không ngạc nhiên, có lẽ từng xem qua mạng.

Khi nhân viên phục vụ, trong trang phục “có như không”, nhìn chúng tôi, vui vẻ,

“What do you drink?”

Nữ văn sĩ nhỏ nhẹ,

“Anh uống gì, em cũng thế.”

“Bia nhé?”

“Thôi, say chết.”

“Bia ở đây không cồn, chỉ có mùi thôi.”

“Lạ thế!”

“Tất cả những nơi như nơi này đều không bán rượu mạnh, bia cũng giả, phòng ngừa men rượu sẽ làm thực khách hưng phấn, dở trò bậy bạ.”

“Chu đáo nhỉ.”

“Vâng, rất chu đáo. Mỹ là quốc gia dân chủ và có nền pháp trị công minh. Chả hạn tại đây, mọi người thoải mái nhìn, tán dương bằng lời nhưng tuyệt đối không động chân động tay. Security theo dõi qua camera và xuất hiện ngay nếu khách có biểu hiện sàm sỡ. Nhẹ, cảnh cáo, nặng vừa, yêu cầu ra khỏi cửa, nặng hơn, nếu khách ngoan cố bất chấp nội qui, sẽ lãnh vài quả đấm sái quai hàm trước khi báo cảnh sát.

Trong giờ nghỉ giải lao, một em vũ công đến, nói một tràng dài, đưa tay chỉ vào trong, kèm theo nụ cười chào hàng thập phần mời gọi. Nữ văn sĩ hỏi tôi,

"Nó nói cái gì vậy?"

Tôi thông dịch, cô ấy nói, “nếu muốn xem múa riêng thì vào trỏng, chỉ trả thêm 20 tì thôi."

"Trỏng" là góc nhà được chia thành vài “phòng” nhỏ bằng những tấm pano chu vi chừng 1m50 vuông, chỉ vỏn vẹn một ghế ngồi dành cho khách.

Nữ văn sĩ lắc đầu. Khi em vũ công đi khỏi, tôi cười,

“Sao không ok, cho biết?”

“Biết cái gì?”

Tôi mô tả đại khái,

“Trong diện tích chật hẹp 1m50, vẫn những động thái khêu gợi như trên sân khấu bên ngoài, chỉ khác màn trình diễn chỉ dành cho duy nhất một khách xem, mặt đối mặt, gần gũi đến độ khách có thể ngửi được mùi nước hoa trên người vũ công.”

Cận tết dương lịch cuối năm 2001, tôi đón một nhà phê bình văn học đứng tuổi, trí thức, am tường Pháp ngữ, tiếng Anh  đọc, nghe hiểu nhưng nói nặng âm Pháp người đối thoại khó tiếp thu. Các bài viết của ông thường rất sâu sắc và uyên bác. Sau nửa tháng tôi hướng dẫn tham quan mọi nơi nổi tiếng trong tiểu bang California: Disneyland, Studio Holywood, Seaworld… Trước khi về nước ông X, ngập ngừng hỏi nhỏ tôi,

“Vùng này có vũ sexy không?”

“Có.”

“Gần đây chứ?”

“Độ nửa giờ xe.”

“Tôi muốn xem, cho biết.”

Tôi cười,

“Dễ thôi. Tám giờ tôi sẽ đưa bác đi.”

Sau bữa cơm chiều ở một nhà hàng nhỏ nằm trong khu Little Saigon, chúng tôi lên xe chạy về hướng Nam. Trời chuyển sang đêm, đường phố thưa xe, mặt lộ rộng loáng ánh đèn, gió từ hướng biển thổi vào, không khí gây lạnh. Đến nơi, tôi đưa xe đậu phía dưới tấm bảng lớn gắn trên trụ cao: Orchid Dancing Naked. Sau khi lại quầy mua hai vé, tôi quay qua ông X,

“Mình vào.”

Lối đi hẹp, ánh sáng từ trần cao dội xuống chỉ vừa đủ soi đường. Người gác nhận hai tấm vé ném vào thùng nhỏ bên cạnh rồi mở nhẹ cánh cửa. Tiếng nhạc từ trong thoát ra ầm ỉ. Căn phòng không rộng, sân khấu tròn cao ngang thắt lưng, hàng ghế chung quanh đã kín khách. Giữa sân khấu một cột sắt bóng loáng thẳng đứng. Tôi và nhà phê bình chọn bàn nhỏ sát vách. Đèn màu quay đảo cùng tiếng nhạc mở hết công suất tạo cho bầu khí cảm giác sinh động, thôi thúc. Cô vũ nữ vừa xong màn trình diễn khoan thai bước vào hậu trường qua lối đi nhỏ dẫn vào ô cửa thấp. âu ngô đã được cắt tỉa gọn ghẽ thành hình trái tim.

Tiếng MC oang oang trong loa phóng thanh,

Next, the performance of the goddess Vietnamese.”

Ông X trố mắt nhìn tôi,

“Có cả VN cơ à?”

“Chứ sao, phe ta có mặt trong mọi ngành nghề.”

Một chàng trai mặc áo thun ba lỗ màu trắng nhét nửa trong nửa ngoài chiếc quần jean xanh rách hai gối, tóc dài phủ vai, cặp kính sậm màu che kín hai mắt. Chàng trai lửng thửng từ ngoài cửa đi vào, dừng lại cạnh vòng tròn sân khấu, đảo mắt nhìn quanh, tia nhìn dừng lại khá lâu phía tôi rồi bước nhanh đến bắt tay, cười tươi,

Long time no see, you're fatter but me vẫn nhận ra ngay.”

Chàng trai nói tiếng Việt giả cầy, giọng lơ lớ. Tôi quay nhìn nhà phê bình, giới thiệu, cũng bằng ngôn ngữ giả cầy,

Robert, my friend, hồi tôi mới sang, học chung lớp Art Golden west community college, bác X, my old friend.”

Đã sáu năm từ ngày rời trường tôi không gặp Robert. Ngày đó tôi đi học cốt lấy tấm bằng vì nghe nói nếu sau này xin việc, có bằng, sẽ dễ dàng được nhận và lương cao. Nhưng chỉ hơn nửa năm, tôi bỏ. Một họa sĩ đã hành nghề nhiều năm trở lại học những điều vỡ lòng, tôi ngán không chịu nỗi. Robert và tôi là hai người Việt Nam trong lớp toàn Mỹ trắng, nên chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn. Hắn trưởng thành và học hành tại đây, tiếng Việt tuy nói được nhưng phát âm lơ lớ.

Tôi hỏi,

You vẫn thường đến đây?”

“Every night.”

“Oh!”

Robert cười,

You surprised? My wife works ở đây.”

Robert chỉ tay lên sân khấu, giới thiệu,

My wife.”

Cô vũ nữ tuy nhỏ con nhưng cân đối, hai vai ngang đổ xuống vùng ngực nhô cao. Cũng như mọi vũ công trước, cô ta trình diễn chuyên nghiệp. Luồng ánh sáng xanh nhạt từ trần dội xuống phủ kín thân thể cô ta một màn sương như như thực. Tiếng MC gào lớn,

Beautiful... beautiful...”

Robert kéo ghế ngồi cạnh tôi, kể, ra trường hắn xin vào công ty Disneyland, bộ phận hoạt hình. Được một năm thì quen với cô vũ nữ đã làm ở night club này từ trước. Họ lấy nhau, thuê nhà sống chung ở đường H., gần nơi làm việc của Robert. Cuộc sống ổn định, hạnh phúc. Hai người dự tính cuối năm nay sẽ move sang Hawaii. Họ được vợ chồng một ông chú sắp về hưu hứa nhượng lại một shop nhỏ bán đồ lưu niệm, vừa với số tiền họ tích góp từ ngày lấy nhau. Shop tuy khiêm nhường nhưng thu nhập tốt, vững chãi.

Trên sân khấu màn trình diễn kết thúc sau khoảng mười phút, vợ Robert biến vào hậu trường thay quần áo rồi đến bàn chúng tôi trong trang phục tươm tất, quần jean, áo phông, jacket da màu mận chín khoác ngoài, trông trẻ trung, khỏe mạnh. Robert đứng dậy,

We go home now, weekend rảnh ghé nhà me nhậu chơi.”

Và đưa tôi tấm card rồi khoát tay vợ ra khỏi cửa.
Mãn cuộc, khi ra xe về, nhà phê bình băn khoăn,

“Anh con trai ban nãy là chồng cô ấy thật à?”

“Bác không nghe hắn giới thiệu ư?”

Nhà phê bình chép miệng,

“Lạ quá!”

“Ở xứ này nhân quyền được tôn trọng tuyệt đối, nghề nào cũng chân chính, miễn hợp pháp, đóng thuế đầy đủ. Có gì đáng ngạc nhiên đâu.”

Suốt đường từ vũ trường đến nhà, ông X không ngừng hỏi tôi mọi chuyện liên quan đến những ngành nghề, theo bác ấy, là phi đạo đức. Tôi nói,

“Mai mốt nếu có giờ tôi sẽ đưa bác lên San Fransisco coi đóng phim 3X, nữ diễn viên cũng có chồng đưa rước mỗi ngày.”

Nhà phê bình trợn mắt,

“Thế nữa kia à?”

“Vâng.”

Nhà phê bình nhẹ lắc đầu,

‘Đúng là Mỹ.”

Đúng là Mỹ, hoàn toàn khác xa nơi tôi sinh ra, nơi mà dù đã yêu nhau nửa năm hơn, tôi chỉ mới hôn nàng lần đầu cũng là lần cuối trước khi chia tay xuống tàu vượt biển. Và dĩ nhiên cũng chưa từng chung đụng xác thịt. Hai nền văn hóa, hai quan niệm đạo đức.

 “Ở Mỹ cái gì cũng có thể xảy ra!”

“Bên Âu Châu và một số nước ở Á Châu, nhất là Nhật và Thái Lan không thiếu các tiết mục này, thậm chí còn nhiều pha ngạt thở hơn.”

“Á châu theo văn hóa Đông phương, lẽ ra phải lên án thứ sản phẩm đồi trụy này!”

“Văn hóa Đông phương? Nói lại cho đúng, văn hóa Tàu!”

“Đã sao, nó thích hợp với người Á châu.”

“Ngày nay không còn như xưa, trong thế giới phẳng, mọi khác biệt giữa Đông và Tây gần như được xóa nhòa.”

“Đồng ý, nhưng phải gạn lọc, thứ văn hóa đồi trụy này không nên du nhập.”

“Đồi trụy? Quan niệm thiển cận, phiến diện và đạo đức giả. Nói thật đi, bác thích không?”

Nhà phê bình không trả lời. Tôi nói,

“Tuy khác biệt Đông Tây đã thu hẹp, nhưng khoảng cách vẫn còn xa. Phương Tây thực dụng và ngay thẳng, không nhập nhằng úp mở. Nếu quần chúng có nhu cầu, họ tìm cách đáp ứng ngay, trong giới hạn luật pháp cho phép. Phương Đông không thế, “tình trong như đã mặt ngoài còn e” là thói tật của ta. Đó là nguyên nhân các tụ điểm ăn chơi lậu hình thành, sa đọa hơn, dẫn đến tệ nạn bao che, tham ô có điều kiện nẩy sinh. Thường, càng cấm đoán, thiên hạ càng tò mò, ngược lại, nếu công khai thì đến một lúc nào đó sẽ hóa tầm thường, ít ai quan tâm. Lại có thêm lợi điểm: về mặt trị an, nhà nước dễ kiểm soát; Mặt kinh tế, sẽ có thêm một khoảng thuế không nhỏ.”

Nhà phê bình vẫn băn khoăn,

“Nước Mỹ loạn qua!”

“Cuộc đời muôn mặt. Không thể chỉ nhìn vào góc tối nhỏ nhoi rồi đánh giá phần chủ đạo mênh mông chói lòa ánh sáng. Trên thực tế, không ai có thể phủ nhận nước Mỹ hùng mạnh nhất thế giới về mọi mặt, Á châu nước nào hơn Nhật? Được thế nhờ nhiều yếu tố, song quan trọng nhất là các quốc gia này tôn trọng tuyệt đối tự do cá nhân, ai muốn sống thế nào tùy chọn lựa, miễn đừng xâm phạm tự do của người khác và tuân thủ luật pháp. Giáo dục tiên tiến, chu toàn mọi bình diện, từ tri thức đến đạo đức. Trẻ con không biết nói dối, gìn giữ nhân cách của mình, bảo vệ lợi ích của người, thực thi quyền bình đẳng, yêu thiên nhiên, muôn loài, nghệ thuật, văn học, âm nhạc… Ở Nhật có những ngôi chùa, những thiền viện nổi danh với các cao tăng đạo hạnh, phương pháp tu chứng phóng khoáng, cập nhật, nhiều học giả khai sinh những bộ triết luận Phật học uyên thâm, vang dội không chỉ trong nước mà còn lan tỏa đến mọi nơi trên hành tinh này. Ở Thái Lan Phật giáo là quốc giáo, người dân coi trọng luật pháp, trộm cắp, cướp giật và mọi tệ nạn vượt ngoài khuôn phép bị xử phạt nghiêm khắc. Ở Mỹ có những ngôi làng đạo hạnh và khắc kỷ đến khó tin, dân chúng ngày hai lần đến nhà thờ cầu kinh, nghe rao giảng, thực thi nghiêm chỉnh các lời răn của Chúa. Sinh hoạt hàng ngày giản dị tối đa. Không xe hơi, máy giặc, tivi, tủ lạnh… Nấu ăn bằng than củi, tắm giặt bằng nước giếng, đi bộ hoặc xe ngựa… Chả ai buộc họ sống thế, tất cả đều tự nguyện. Người nào không chấp nhận khuôn phép ấy cứ thoải mái move đi nơi khác. Nói tóm, đó là chọn lựa của họ, không luật lệ nào phê phán, cấm cản. Ngược lại, họ cũng tuyệt đối không áp đặt chọn lựa này lên người khác. Tự do, tự do và tự do. Có thể khẳng định, tự do là đầu tàu dẫn dắt tiến bộ.”

Xe dừng lại trước ngã tư đèn đỏ. Khuya. Phố vắng, mặt lộ dường như rộng hơn. Một chiếc xe chậm lại rồi chồm lên lao nhanh qua ngã tư, dù đèn chưa bật xanh. Lập tức, nup sau tiệm McDonald’s, một xe mô-tô cảnh sát vọt ra, hú còi chớp đèn rượt theo.

Tôi nói,

“Thế là mất toi bốn trăm đô!”

“Tiền phạt?”

“Yes, chưa kể phải đi học. Luật pháp ở xứ này nghiêm minh, không giỡn mặt được. Các dân tộc khác, như Việt Nam, thường đánh giá sai lạc về nước Mỹ.
Sai lạc bởi họ nhìn nước Mỹ qua truyền hình, truyền thanh, báo chí. Bác hẳn biết, để câu độc giả, như ở bất cứ quốc gia nào, bọn truyền thông luôn săn tìm và show những tin tức giật gân. Súng đạn, cướp của, hiếp dâm… Với một đất nước mênh mông  trên dưới 350  triệu dân, mỗi năm vài mươi ngàn người  chết vì bạo lực có là bao, thua xa tử vong vì giao thông, đột qụy, tim mạch, ung thư… Nghĩa là trên thực tế, khác hẳn các nước nghèo, trật tự được thực thi nghiêm chỉnh, an ninh được bảo vệ tối đa, người dân yên bình, không nơm nớp lo bọn bất lương sách nhiễu.”

“Anh thiên vị quá chăng?”

“Tôi khách quan, sống lâu ở đây bác sẽ rõ mọi điều tôi vừa nói là sự thật.”
Nhà phê bình im lặng vẻ trầm tư suốt quãng đường dài. Cuối cùng, khi xe rẽ vào sân nhà, ông ta vỗ nhẹ đùi tôi, giọng tự sự,

“Có lẽ anh nói không sai. Các du sinh và những người xuất ngoại sang các quốc gia phương Tây khi về nước thường có tư tưởng phóng khoáng, cởi mở, đối nghịch hẳn định kiến bảo thủ, tự tôn dân tộc vô lối của tầng lớp quẩn quanh sau lũy tre làng, bị điều kiện hóa bởi môi trường sống chật hẹp, khép kín, giáo điều.”

Tôi bấm remote control mở cửa garage cho xe vào. Đêm đã khuya, đường sá không một bóng người. Tàng thông cổ thụ góc nhà rì rào gió. Bóng đèn trước cửa tự động bật sáng khi chúng tôi bước lên tam cấp.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có lẽ ngày xưa các bậc sinh thành nên đặt tên tôi là Măng mới hợp với lẽ trời. Tôi khoái măng một cách kỳ lạ trong khi thằng con trai tôi lại ghét thậm tệ. Không biết có phải loại hình cha ăn mặn con khát nước không. Măng làm cách chi tôi cũng thích dù chỉ là thứ măng ngâm trong hũ bán đầy chợ. Nhưng món tôi hẩu nhất là món bún măng vịt. Nghe nhà hàng nào có bún măng vịt là tôi tìm tới, như tìm tới nhà người thương. Bún măng vịt với đĩa gỏi thịt vịt nằm xếp lớp trên lớp rau bên cạnh chén nước mắm gừng trông cứ như là Bá Nha của đôi mắt Tử Kỳ là tôi.
Hãy thử kiểm tra lại ký ức của bạn xem. Trong bộ phim kinh điển The Empire Strikes Back, Darth Vader đã nói gì với Luke Skywalker? Bộ sách thiếu nhi về gia đình nhà gấu có tựa đề là Berenstain Bears hay Berenstein Bears? Và trên logo của thương hiệu phô mai Con Bò Cười, liệu con bò có đeo khuyên mũi? Nếu câu trả lời của bạn là “Luke, ta là cha của con,” “Berenstein,” và “Có,” thì xin chia buồn, ký ức đã đánh lừa bạn. Darth Vader thực chất chưa bao giờ nói câu đó; tên của gia đình gấu luôn được viết là “Berenstain”; và con bò trên logo phô mai nổi tiếng chưa từng đeo khuyên mũi.
Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
Trong một lần tới thăm Hải Học Viện Nha Trang cách đây khoảng vài chục năm, tôi đã thấy một cặp sam sống trong một lồng kính. Phải thú nhận là tôi rất ngạc nhiên. Chúng dính vào nhau, một con trên một con dưới. “Dính như sam” thì tôi thuộc nằm lòng nhưng không ngờ chúng dính cứng như vậy. Dò hỏi nhân viên của Viện, tôi được cho biết hai con dính vào nhau như vậy suốt ngày đêm. Con đực kính thước chỉ nhỏ bằng nửa con cái luôn nằm dính trên lưng con cái. Cứ như mẹ cõng con đi chơi. Thân nam nhi mà coi bộ lép vế. Đeo dính sát sạt như vậy ngày đêm thì teo tắt là cái chắc. Vết đôi chân con đực bám vào hằn rõ trên mai con cái. Cùng sống chết với nhau như vậy nên ngư dân thường bắt được cả cặp. Nếu chỉ bắt được một con, gọi là sam độc, họ thả trở lại biển. Chẳng phải nhân nghĩa chi nhưng vì họ không bán được cho người ta làm thịt. Thực khách luôn mua làm thịt cả cặp, ăn một con họ tin rằng sẽ bị độc. Vậy sam sống cùng sống, chết cùng chết, lúc nào cũng dính nhau. Như…sam!
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.