Hôm nay,  

Sự đời

13/10/202300:00:00(Xem: 3147)
 
Logo cho fb
 
Trung tâm lọc máu, nơi tôi đến “làm việc”, khá qui mô, gồm nhiều nhân viên: văn phòng, tiếp tân, kỹ thuật, lao công dọn dẹp vệ sinh, bác sĩ, trợ lý, y tá… Riêng đội ngũ y tá gồm 6 người, trong số này có hai người cho tôi nhiều ấn tượng nhất:
   
Một anh Mỹ đen cao to như con gấu, chí ít cũng 250 ký, khó đăm đăm, ít khi cười, phát ngôn cộc cằn. Nói chung, thoạt nhìn tôi không ưa nổi, và sợ, tay này lụi kim (mỗi lần 2 mũi, kim to như cây tăm xỉa răng, cách nhau khoảng 2cm, một mũi hút máu ra đưa vào máy lọc chất dơ rồi trả lại cơ thể qua mũi thứ hai. Cứ thế luân lưu hơn ba tiếng), tôi nghĩ, chắc đau xón đái.
   
Một con bé người Phi dong dỏng cao, xinh gái, lễ phép, vui vẻ, dịu dàng.
   
Các y tá luân phiên, chừng 10 ngày vòng xoay lại đến. Ban đầu tôi rất mong con bé sẽ lo cho mình, ngược lại, nơm nớp sợ tên Mỹ đen “tra tấn”.
   
Nhưng sự đời nhiều cái thực không thể ngờ.
   
Con bé dễ thương như thiên thần lại vụng về đến… kinh hoàng. Nó thường lụi kim trật lất, năm lần bảy lượt mới trúng mạch máu, cứ như tay chơi thứ thiệt, thọc trên nạy dưới đâm ngang xỏ dọc. Đau tắt thở!!! Ngược lại, “con gấu” trông bặm trợn lại tuyệt vời, lụi kim chính xác và êm ái nhẹ hơn kiến cắn, thậm chí có lúc tưởng như không.
   
Từ lúc ấy tình cảm tôi xoay 180 độ. Trông chờ đến phiên tên da đen bao nhiêu thì sợ gặp thiên thần bấy nhiêu.
   
Từ chuyện lọc máu, nhỏ, chợt nhớ chuyện xưa, lớn hơn.
   
Hai chuyện tình tiết khác nhau nhưng có cùng mẫu số chung: đau! Một đằng đau thể xác, đằng kia đau tinh thần. Nỗi đau thể xác qua nhanh (nhiều năm qua, cách ngày, hàng ngàn mũi kim đã lụi vào mạch máu, nhưng chỉ đau vài giây rồi thôi). Nỗi đau tinh thần khó xóa. Tuy thời gian có làm nhạt bớt, vậy mà thỉnh thoảng hồi nhớ vẫn nghe nhoi nhói, cảm giác nhoi nhói này chắc chắn sẽ bám theo cho đến ngày xuống lỗ.
   
Thuở trên dưới hai mươi tôi sống khá buông tuồng. Rượu, cà phê, thuốc lá, gái trai nhăng nhít. Rượu? Ngày nào cũng uống, một mình có thể nốc nửa lít rượu trắng Bà Điểm (nổi tiếng nặng đô, hơn cả Vodka của Nga). Các thứ khác của Tây, Tàu, Nhật như Hennessy VS Cognac, Johnnie Walker, Mai Quế lộ, Sakê… tôi thừa sức nốc hết ly này sang ly khác, càng uống càng hưng phấn! Còn bia? Khác chi nước lã, chỉ để giải khát, và để…. xúc miệng cho thơm râu! Cà phê? Ngày bốn cữ, sáng trưa chiều tối, chưa kể cà kê dê ngỗng với bạn bè ở các quán đèn mờ, nhạc nhiếc khuất chìm lướt thướt êm ru kiểu Hầm Gió, Mù U… và chỉ sính đen đậm, đắng như sái thuốc phiện. Thuốc lá? Ngày hai bao Bastos xanh. Mọi thứ khác như Ruby, Captan, Camel… nhẹ quá, rít bao nhiêu điếu mới đã? Thứ có đầu lọc, mùi bạc hà the the đỏm dáng càng chả ra chi, chỉ dành cho bọn công tử học đòi ăn chơi hoặc nhi nữ con nhà… rách! Hoặc nữa, các em cave trong vòng ôm mấy tên GI mắt xanh mũi lõ ở các Night Club xập xình nhạc Disco. Và gái? Tôi không đẹp giai, mắt một mí, răng cải mả vô trật tự, trán hói lơ thơ vài sợi tóc, ốm nhách, đi đứng hấp ta hấp tấp như bị ma rượt (theo mấy ngài thầy bói: số bần hàn cơ cực, không vác thuê gánh mướn cũng xích lô ba gác đổ mồ hôi sôi nước mắt chưa chắc rau mắm đủ no), lại xuất thân hạ lưu, cha mẹ lao động chân tay, quanh năm, dầm mưa dãi nắng nên da dẻ đen đúa sần sùi. Đương nhiên tôi `thừa hưởng tố chất di truyền, cũng đen nhẻm.
   
Tuy ngoại hình rất ư phản mỹ thuật là thế tôi vẫn được tiếng đắt đào. Người sính tử vi bảo tôi có sao đào hoa chiếu mệnh. Riêng tôi, hiểu, chả tướng với số gì, chỉ là tôi đủ khôn để biết, muốn đạt mục đích, điều kiện ắt có và đủ là nói năng tán tỉnh hoặc giả vờ lắp bắp đúng điệu nhát gái, hoặc mồm miệng bôi mỡ trơn tru, dẻo ngọt như kẹo mạch nha, cộng thêm ngón võ lì, dai hơn ghẻ rách! Ban đầu các nàng đỏng đảnh trề môi: không có cửa mô! Nhưng tôi vẫn kiên trì bám trụ tới hơi thở cuối cùng. Riết, các nàng động lòng trắc ẩn (phái nữ vốn nhẹ thể!) để rồi một ngày tay đây em hãy tựa đầu, cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
   
Vì đắt đào nên tôi hơi chảnh! Chỉ giăng câu thả lưới các nàng mày ngài mắt phượng, vóc dáng cao ráo, đầy đủ lễ bộ tựa các hoa hậu chân dài (nếu có thua cũng chỉ chút đỉnh không đáng kể). Nói chung, đó là những nhan sắc trên trung bình. Nàng nào ngoại hình thường thường bậc trung, tôi chê!
   

Năm mười tám tuổi tôi được cùng lúc hai nàng để mắt xanh. Một nàng đúng chỉ số tôi đề ra. Cuộc tình mặn nồng với đầy đủ cung bậc. Bỗng môt ngày nàng biến mất. Nửa tháng sau tôi mới hay nàng đã xuất giá tòng phu. Tôi đau, mất ăn mất ngủ nhiều tháng! Năm kế thi rớt tú tài, tôi vào lính. Sau bốn tháng quân trường tôi về đơn vị tác chiến với cái cánh gà bên vai. Thường, sau vài tháng hành quân đơn vị về hậu cứ nghỉ dưỡng. Thời gian này bọn lính lác chúng tôi mỗi sáng nếu không đi “rỏn” quanh vòng đai thành phố giữ an ninh cho thiên hạ an hưởng thái bình thì phải tạp dịch, lợp lại mái tôn, sơn quét doanh trại, rửa cầu tiêu, nhổ cỏ ngoài vận động trường… Một hôm tôi cùng tám thuộc hạ do tôi làm tiểu đội trưởng đang hì hục vét lại giao thông hào dọc lối đi dẫn ra cổng, chợt tai nghe tiếng thắng rít nhẹ cùng tiếng động cơ nổ êm. Ngẩng lên, và do phản xạ, tôi thẳng người, đưa cao tay chào đúng lễ nghi quân cách. Trên xe, băng sau, thiếu tá tiểu đoàn trưởng ngồi vắt chân chữ ngũ, ung dung, trên môi ngậm ống vố, mùi khói hap in hap thơm lừng:
   
“Làm tốt nhé, mai tôi cho nghỉ một ngày, mặc sức ăn nhậu.”
   
Bà vợ ngồi bên giục:
   
“Đi thôi, không khéo tới trễ, tiệc tùng toàn tai to mặt lớn, mình tới trễ coi hổng được.”
   
Mải lo chào kính tôi không để ý phu nhân sếp, đến khi nghe giọng quen, tôi giật mình nhìn kỹ. Nàng, người tình thứ nhất của tôi, son môi bóng nhẫy, áo sơ mi trắng, vét tông khoác ngoài, khăn lông quàng cổ, tóc vấn cao, đôi bông tai lấp lánh hai hạt kim cương. Nàng chồm người soi lại dung nhan trong kính chiếu hậu, không thèm nhìn bọn lính chúng tôi!
   
Ôi, nàng đó sao? Con họa mi có đôi cánh xanh mùa đông (trời lạnh, nàng thường mặc áo len xanh) từng thề non hẹn biển, từng trong vòng tay tôi, mắt long lanh ướt, nhõng nhẽo: “Anh ơi, yêu em mãi nhé, đừng một dạ hai lòng, em tự tử cho anh ân hận suốt đời.”
   
Gã tài xế cho xe vọt nhanh theo lệnh thượng cấp. Tôi sững người nhìn theo, lảo đảo muốn ngã. Tên lính đứng cạnh đưa tay đỡ:
   
“Trung sĩ răng rứa, mặt tái xanh, trúng gió à?”
   
Tôi cố trấn tĩnh:
   
“Không có chi, làm lẹ cho xong sớm, còn ra chợ sư đoàn mần vài xị.”
   
Tôi đau hơn bị hoạn, tư nhủ, tối nay phải say một trận nghiêng trời lệch đất cho quên mối hận tình!
     
Nàng thứ hai con nhà giàu, đi học bằng xe hơi có tài xế đưa đón, phải tội nàng có một dung nhan đáng thở dài, vóc dáng phì nhiêu, cao khiêm nhường, cười hở lợi phản cảm. Nàng yêu tôi rất mực. Tôi ỡm ờ, bởi lẽ so với nàng thứ nhất, chẳng khác ví gà với công, yêu nỗi gì! Thời ấy phong trào chạy patin nở rộ, khắp thành phố sân patin mọc lên như nấm. Nhà nàng cũng kinh doanh một sân patin hiện đại rộng thênh thang. Thông thường khách thuê giày có bánh xe của chủ để lướt, riêng tôi, nàng mua tặng một đôi patin bảnh chọe làm của riêng. Khổ nỗi tôi mê người tình thứ nhất, con chim họa mi có đôi cánh xanh mùa đông đỏm dáng, nên vội vả chạy đến nhà nàng với đôi patin cáu cạnh, trộ:
   
“Anh tặng em.”
   
“Cưng mua à?”
   
Tôi vênh mặt:
   
“Phải, đời anh cho được anh cũng cho, sá gì đôi patin.”
   
Nàng cảm động hôn tôi một cái rõ dài, môi mềm, thơm ngọt. Tôi ngất ngư, vượt qua ngay mặc cảm áy náy đã dùng quà của nàng thứ hai tặng lại người tình mặt hoa da phấn!
   
Ngày tôi vào lính, nàng thứ hai chăm chỉ viết năm ba chục lá thư than khóc tỉ tê, thề sẽ không yêu ai đến mãn kiếp. Tôi câm, vì chưa thể quện người tình thứ nhất. Về đơn vị một thời gian, tôi nghe tin nàng thứ hai lấy chồng theo lệnh song thân, nàng vốn dĩ con nhà lành, nào dám trái lòng phụ mẫu! Thế cũng xong.
   
Một hôm nghỉ phép tôi xuống phố, chạm mặt nàng trong quán kem, tay bế con chưa đầy tuổi, nàng lúng túng:
   
“Anh khỏe?”
   
“Khỏe, còn em?”
   
Nàng nhìn sâu vào mắt tôi, giọng trầm, rơm rớm:
   
“Khỏe, nhưng…”
   
Ngập ngừng vài giây, nàng hạ giọng:
   
“Em không quên được anh.”
   
*
 
Người xưa nói không sai: tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
   
Cô bé người Phi dễ thương tựa thiên thần nhưng lụi kim vụng về, đau tắt thở, anh Mỹ đen mặt mày bặm trợn, nói năng cộc cằn, dáng thô kệch như con gấu, nhưng lụi kim chính xác, nhẹ nhàng, êm ru. Và một nàng nhan sắc chim sa cá lặn nhưng thay lòng đổi dạ khó lường, nàng kia dung nhan tựa tiếng thở dài nhưng thủy chung rất mực.
   
Sự đời lắm nỗi đa đoan, sai đúng khó phân!
 
– Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có lẽ ngày xưa các bậc sinh thành nên đặt tên tôi là Măng mới hợp với lẽ trời. Tôi khoái măng một cách kỳ lạ trong khi thằng con trai tôi lại ghét thậm tệ. Không biết có phải loại hình cha ăn mặn con khát nước không. Măng làm cách chi tôi cũng thích dù chỉ là thứ măng ngâm trong hũ bán đầy chợ. Nhưng món tôi hẩu nhất là món bún măng vịt. Nghe nhà hàng nào có bún măng vịt là tôi tìm tới, như tìm tới nhà người thương. Bún măng vịt với đĩa gỏi thịt vịt nằm xếp lớp trên lớp rau bên cạnh chén nước mắm gừng trông cứ như là Bá Nha của đôi mắt Tử Kỳ là tôi.
Hãy thử kiểm tra lại ký ức của bạn xem. Trong bộ phim kinh điển The Empire Strikes Back, Darth Vader đã nói gì với Luke Skywalker? Bộ sách thiếu nhi về gia đình nhà gấu có tựa đề là Berenstain Bears hay Berenstein Bears? Và trên logo của thương hiệu phô mai Con Bò Cười, liệu con bò có đeo khuyên mũi? Nếu câu trả lời của bạn là “Luke, ta là cha của con,” “Berenstein,” và “Có,” thì xin chia buồn, ký ức đã đánh lừa bạn. Darth Vader thực chất chưa bao giờ nói câu đó; tên của gia đình gấu luôn được viết là “Berenstain”; và con bò trên logo phô mai nổi tiếng chưa từng đeo khuyên mũi.
Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
Trong một lần tới thăm Hải Học Viện Nha Trang cách đây khoảng vài chục năm, tôi đã thấy một cặp sam sống trong một lồng kính. Phải thú nhận là tôi rất ngạc nhiên. Chúng dính vào nhau, một con trên một con dưới. “Dính như sam” thì tôi thuộc nằm lòng nhưng không ngờ chúng dính cứng như vậy. Dò hỏi nhân viên của Viện, tôi được cho biết hai con dính vào nhau như vậy suốt ngày đêm. Con đực kính thước chỉ nhỏ bằng nửa con cái luôn nằm dính trên lưng con cái. Cứ như mẹ cõng con đi chơi. Thân nam nhi mà coi bộ lép vế. Đeo dính sát sạt như vậy ngày đêm thì teo tắt là cái chắc. Vết đôi chân con đực bám vào hằn rõ trên mai con cái. Cùng sống chết với nhau như vậy nên ngư dân thường bắt được cả cặp. Nếu chỉ bắt được một con, gọi là sam độc, họ thả trở lại biển. Chẳng phải nhân nghĩa chi nhưng vì họ không bán được cho người ta làm thịt. Thực khách luôn mua làm thịt cả cặp, ăn một con họ tin rằng sẽ bị độc. Vậy sam sống cùng sống, chết cùng chết, lúc nào cũng dính nhau. Như…sam!
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.