Hôm nay,  

Chữ "Đức"

14/05/202408:00:00(Xem: 2455)
1688841448-Ngoi-sao-bac-anh-sinh-2237-1514268953

Tôi thực sự ngạc nhiên và thích thú trong chuyến hành hương thánh địa Bethlehem khi tôi phát hiện ra hình Mặt Trời 14 Tia (Thập Tứ Nhất Tâm là Chữ Đức của Trống Đồng Ngọc Lữ) lại đánh dấu nơi Máng Cỏ mà Đức Hài Đồng Giêsu giáng trần tại Hang Đá Bethelem cách nay hai nghìn năm.
    Thánh Địa này đã được Hoàng Đế Constantine giúp phương tiện cho mẹ ngài là Thánh Nữ Hoàng Thái Hậu Helena, xây dựng Vương Cung Thánh Đường Giáng Sinh (Church of the Nativity) vào năm 327 sau Công Nguyên, cách Thành Thánh Jerusalem khoảng 8 cây số về hướng Nam trong phần đất của người Palestine ngày nay.
    Theo truyền thuyết thì Vương Cung Thánh Đường Giáng Sinh đã đặt bàn thờ ngay trên máng cỏ, nơi Chúa Hài Đồng Giêsu sinh ra trong hang đá, và bên dưới bàn thờ hiện ra là hình Mặt Trời 14 Tia Sáng bằng bạc khảm trên một tảng cẩm thạch, biểu trưng cho chữ Đức, là đạo đức, phúc đức, nhân đức, ân đức... như như Tổ Tiên Việt Nam chúng ta đã từng viết trên mặt Trống Đồng Ngọc Lữ. Chứng cứ Mặt Trời 14 Tia Sáng cũng được ghi nhận trong quyển sách của Thánh Tử Đạo Justin (Martyr) viết vào khoảng năm 160 sau Công Nguyên.
    Cũng như trong bài Phúc Đức mà là nền tảng đạo sống của Dân Tộc Việt Nam mà tôi đã có dịp thưa chuyện, thì theo Việt Ngữ, chữ Đức có nghĩa Mặt Trời 14 Tia Sáng được đặt ở trung tâm mặt Trống Đồng Ngọc Lữ, gồm có bộ chữ “Thập + Tứ + Nhất + Tâm,” là Mười Bốn Người Một Lòng – hay 14 người đồng tâm, hoặc mang tinh thần đồng bào (đồng là cùng, bào là bọc) anh em cùng được sinh ra một lần và một lúc từ Một Bọc Trăm Con của Mẹ Cha Tiên Rồng.
   Vậy thì khi khắc Trống Đồng, dùng để làm trống canh giờ giấc, trống trận hay báo động cho dân làng tập họp... thì Tổ Tiên Việt Nam chúng ta cũng đã có dụng ý nhắc nhớ Con Cháu Tiên Rồng về tinh thần đồng bào là sống theo nguyên lý “Thân Thương & Bình Đẳng,” đồng thời học hỏi về về chủ đề Đạo Đức Làm Người.
    Nguyên lý “Thân Thương” trong truyện tích Trầu Cau & Đá Vôi, thì Tổ Tiên dạy chúng ta rằng đã sống vì Thân Thương, chết cho những người mình thương, và dẫu có chết cũng vẫn còn thương... như nhai trầu cau và đá vôi, quyện chung lại thành màu đỏ hay màu máu để diễn tả nguyên lý “Thân Thương Tột Cùng.”
   Đang khi nguyên lý Bình Đẳng cũng được ghi nhận trong truyện tích Chử Đồng & Tiên Dung, và Tổ Tiên nhận định rằng, chúng ta “Phải thấy nhau bằng con người thật, con người tinh tuyền và đừng để vật chất, lụa là, hay tiền tài danh vọng mà nhận diện, hoặc đo lường giá trị con người” như những văn hóa sai lệch mà chúng ta đang thấy hiện nay.
   Do đó, chúng ta có thể dùng Thân Thương & Bình Đẳng của Tổ Tiên mà làm hòa thuận cho cả một dân tộc đang có hàng trăm triệu người khác biệt tôn giáo, mà vẫn thực thi “Công Bình & Bác Ái của Chúa hay “Từ Bi & Hỷ Xả” của Phật vậy.
   Việc thực hành này chính là điều 7 trong Tám Mối Phúc Thật: “Ai làm cho người hòa thuận ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được gọi là con Đức Chúa Trời vậy.” Tôi đã nhận thức ra từ bảy năm trong ngục tù cải tạo ở Viêt Nam sau ngày Sài Gòn thất thủ.
    Cũng theo Việt Ngữ, chữ Đức có nghĩa là hành động, hoạt động, thực hành khi con người có Đạo. Nếu Đạo là thể tĩnh của Trời Đất, của Đấng Sáng Tạo, thì Đức là thể động của Trời Đất, là hành động, là thần lực, là sức sống sức mạnh của những Người Thụ Tạo như chúng ta học hỏi Đạo để mang Đạo áp dụng vào cuộc sống nhân bản Con Người.
    Giờ đây vợ chồng chúng tôi đi hành hương Thánh Địa và quỳ xuống bái lạy rồi hôn lên Mặt Trời 14 Tia trong Đền Thánh Giáng Sinh của Chúa, cũng như xin Chúa soi sáng và cảm tạ Chúa đã dẫn dắt chúng tôi tới kính viếng nơi Thánh Địa hiển vinh này.
   Đặc biệt “Trong gian truân con đã kêu cầu, và Chúa đã đáp lời con...” như trong 7 năm tù đày cải tạo, chịu tra tấn đánh đập con nài van Chúa và Chúa đã giúp cho chúng con bình thân, mở tâm, khai trí, thông tuệ để nhận ra chữ Đức trên Trống Đồng Ngọc Lữ hay Thạp Đồng Đào Thịnh qua hình ảnh của Mặt Trời 14 Tia:
    - Thân Xác Sinh Động
    - Trí Năng Tinh Biến
    - Tâm Tình Thông Hiệp
    - Tuệ Linh Vĩnh Cửu
    Kể từ đó mà con đã có được lá cờ mà con đặt tên là “Cờ Phúc Đức” ngay khi con còn ở trong nhà tù công an (bò vàng) Xuyên Mộc, cho tới ngày nay là cờ của Trời Đất, cờ của Quốc Tổ và Hồn Thiêng Sông Núi, được trưng ra để phò trợ cho Con Cháu Tiên Rồng, tức lớp Thanh Niên Việt Nam thời đại đứng lên làm cuộc Cải Hoá Bản Thân, Cải Hoá Xã Hội và Giúp Dân Dựng Nước, theo Quan Niệm Sống Phúc Đức của Dân Tộc Việt Nam.
    Đọc trong sách Thánh Kinh Cựu Ước chúng ta cũng biết rằng: “Ngôi Sao 6 Cánh” hợp lại từ hai tam giác cân đặt đều lên nhau, thường được gọi là “Ngôi Sao David,” hay “Tấm Khiên David,” hoặc còn gọi “Dấu Triện Salomon.”
    Ngôi sao của Vua David có 6 cánh, nhưng thực ra lại tượng trưng cho số 7, gồm 6 cánh và phần lục giác bên trong tâm. Theo sự giải thích của Kinh Thánh thì 6 cánh của ngôi sao này, đại diện cho 6 ngày trong một tuần lễ, và phần lục giác bên trong thì tượng trưng cho ngày thứ 7 là ngày Sa Bát, hay là ngày Chúa Nhật.
    Cũng Theo trong Thánh Kinh Cựu Ước dạy rằng: Số 7 mang ý nghĩa đặc biệt trong đức tin Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo đã tạo dựng ra vũ trụ và con người trong tuần lễ. Thực tế, Chúa tạo dựng ra thế giới muôn vật muôn loài và con người trong 6 ngày, thì phải có một ngày thứ 7 để Ngài nghỉ ngơi.
    Mặt khác “Ngôi Sao Sáu Cánh” cũng làm liên hệ đến ấn triện của Vua Solomon, người đầu tiên xây dựng Đền Thờ Jerusalem. Vua Solomon cũng được ghi nhận là do Chúa ban tặng cho món quà “Trí Tuệ/ Khôn Ngoan” hay “Kiến Thức (Knowledge) và Thông Toàn (Wisdom) trong Thời Đại Tín Nghiệp ngày nay. Tóm lại hai Mặt Trời Vua David và Vua Solomon cộng lại cũng là số 14 Tia Sáng.
    Cũng theo Thánh Kinh dạy rằng: Ấn Triện là biểu tượng cho sự hoà hợp đất trời, hoặc bốn phương tám hướng đông tây nam bắc. Bởi thế những ý tưởng này cũng như tấm khiên ngôi sao David trở thành một biểu tượng phong ấn và bảo vệ Đức Tin.
    Từ thế kỷ 17 Ngôi Sao David trở thành con dấu chính thức của nhiều cộng đồng người Do Thái, mặc dù nó không được ghi rõ trong Kinh Thánh hay Sách Talmud. Nhưng hiện nay, từ thế kỷ 19, Ngôi Sao David được người Do Thái chấp nhận và phổ biến toàn diện, làm thành một biểu tượng của Do Thái giáo, tương tự như biểu tượng Thập Tự Giá của Công Giáo.
    Quốc Kỳ Do Thái được công bố vào năm 1948, ở trung tâm cờ đặt biểu tượng Tấm Khiên của Vua David kết hợp với Dấu Triện của Vua Solomon, gọi là Ngôi Sao David có 6 cánh tia, xuất hiện cách nay hơn bốn ngàn năm (National Flag consisting of a central Shield of David (Hebrew: "Magen David," which is also popularly known as the Star of King David).
    Cũng trong chuyến hành hương thánh địa, tôi gặp và tâm tình với người thanh niên Israel trên chuyến du thuyền qua bờ Biển Hồ Galilee, anh cho tôi biết niềm tự tin và tự hào dân tộc của anh được thể hiện qua Kinh Thánh và Quốc Kỳ với Ngôi Sao David.
    Anh hỏi tôi về tình hình chính trị Việt Nam, thì tôi cũng mạnh dạn thưa rằng: "Tôi cũng như anh, tôi cũng có niềm tự tin và tự hào dân tộc Việt Nam qua Chính Thuyết Tiên Rồng, được gọi là Kinh Việt và đoàn kỳ Đạo Đức Việt Nam gọi là Cờ Phúc Đức, với Mặt Trời Đỏ toả 14 Tia Sáng được Tổ Tiên ghi khắc ở trung tâm của Trống Đồng Ngọc Lữ và Thạp Đồng Đào Thịnh.

 

– Phạm Văn Bản

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có lẽ ngày xưa các bậc sinh thành nên đặt tên tôi là Măng mới hợp với lẽ trời. Tôi khoái măng một cách kỳ lạ trong khi thằng con trai tôi lại ghét thậm tệ. Không biết có phải loại hình cha ăn mặn con khát nước không. Măng làm cách chi tôi cũng thích dù chỉ là thứ măng ngâm trong hũ bán đầy chợ. Nhưng món tôi hẩu nhất là món bún măng vịt. Nghe nhà hàng nào có bún măng vịt là tôi tìm tới, như tìm tới nhà người thương. Bún măng vịt với đĩa gỏi thịt vịt nằm xếp lớp trên lớp rau bên cạnh chén nước mắm gừng trông cứ như là Bá Nha của đôi mắt Tử Kỳ là tôi.
Hãy thử kiểm tra lại ký ức của bạn xem. Trong bộ phim kinh điển The Empire Strikes Back, Darth Vader đã nói gì với Luke Skywalker? Bộ sách thiếu nhi về gia đình nhà gấu có tựa đề là Berenstain Bears hay Berenstein Bears? Và trên logo của thương hiệu phô mai Con Bò Cười, liệu con bò có đeo khuyên mũi? Nếu câu trả lời của bạn là “Luke, ta là cha của con,” “Berenstein,” và “Có,” thì xin chia buồn, ký ức đã đánh lừa bạn. Darth Vader thực chất chưa bao giờ nói câu đó; tên của gia đình gấu luôn được viết là “Berenstain”; và con bò trên logo phô mai nổi tiếng chưa từng đeo khuyên mũi.
Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
Trong một lần tới thăm Hải Học Viện Nha Trang cách đây khoảng vài chục năm, tôi đã thấy một cặp sam sống trong một lồng kính. Phải thú nhận là tôi rất ngạc nhiên. Chúng dính vào nhau, một con trên một con dưới. “Dính như sam” thì tôi thuộc nằm lòng nhưng không ngờ chúng dính cứng như vậy. Dò hỏi nhân viên của Viện, tôi được cho biết hai con dính vào nhau như vậy suốt ngày đêm. Con đực kính thước chỉ nhỏ bằng nửa con cái luôn nằm dính trên lưng con cái. Cứ như mẹ cõng con đi chơi. Thân nam nhi mà coi bộ lép vế. Đeo dính sát sạt như vậy ngày đêm thì teo tắt là cái chắc. Vết đôi chân con đực bám vào hằn rõ trên mai con cái. Cùng sống chết với nhau như vậy nên ngư dân thường bắt được cả cặp. Nếu chỉ bắt được một con, gọi là sam độc, họ thả trở lại biển. Chẳng phải nhân nghĩa chi nhưng vì họ không bán được cho người ta làm thịt. Thực khách luôn mua làm thịt cả cặp, ăn một con họ tin rằng sẽ bị độc. Vậy sam sống cùng sống, chết cùng chết, lúc nào cũng dính nhau. Như…sam!
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.