Hôm nay,  

Tiễn bạn

28/06/202400:00:00(Xem: 2794)

tien ban
 
Sáng hôm nay Thứ Hai, sửa soạn đi đám tang người bạn học đột ngột ra đi mấy tuần trước. Anh đang tính chuyện qua Canada tháng Sáu nầy, có thêm người bạn học cũ từ Việt Nam cũng sang rồi cùng xuống New York gặp nhau. Nay thì những hẹn hò từ nay khép lại, với biết bao dự tính, mong ước dang dở…nhưng tin rằng một người tốt đẹp như Anh thì chắc thân đang nhẹ nhàng như mây đâu đó. Tuổi anh đã cổ lai hy. Có người bạn khác làm cho tờ báo Việt Nam ở đây, sáng nào cũng đọc cáo phó với phân ưu nên nhận ra mỗi ngày còn hơi thở là một bonus, lúc đó mới năm mươi.
 
Lần cuối gặp nhau tháng trước có hứa sẽ dàn xếp qua New York gặp rồi đưa anh đi chơi vài ngày cho biết New York City. Không phải chỉ để chụp vài tấm hình có tượng Nữ Thần Tự Do sau lưng hay ghé chợ Tàu ăn tô mì…mà hy vọng anh sẽ thấy hơn tại sao nhiều báo chí phong cho thành phố nầy là best of the best và cư dân ở đây hãnh diện mình là New Yorkers.
 
Không phải ai cũng muốn thấy, chịu đựng được hệ thống subway cũ kỹ, dơ bẩn, hôi hám… phố xá đầy bao rác bên lề chưa mang đi, nước tiểu của chó tràn lan chưa rữa dọn, đường phố vội vã đầy người đủ mọi sắc dân, nói mọi thứ tiếng. Nhà cửa, vật giá đắt đỏ: một ổ bánh mì baguette năm đồng, ly cà-phê hay matcha latte sáu đồng, con vịt quay sáu bảy chục. Tax tip mọi thứ, mọi nơi. Nhưng cũng như khi gặp ai lần đầu trong buổi sơ giao, làm sao thích được một người luộm thuộm, tóc không chãi, áo quần không gọn gàng, nói năng tuỳ tiện…Rồi, với thời gian, quen lâu hơn, thấy cách sống của họ, chuyện trò, trao đổi, học hỏi từ họ mới thấy ra cái duyên dáng, sống động, mặn mà.. mà những người khác không thể có.
 
New York rất đẹp, rất hay, một thành phố vô cùng sinh động với không biết bao nhiêu điều đặc sắc thú vị, thiên hình vạn trạng. Central Park. Metropolitan museum coi cả ngày chưa hết một góc. Âm nhạc, nhảy múa, tranh ảnh bên đường. Bên cạnh sự xô bồ là những con đường, ghế đá, công viên, bãi cỏ dọc theo sông hay dưới chân cầu vô cùng thơ mộng, êm đềm. Những hàng cây xanh thẩp đan nhau mượt mà che phủ lối đi … Mắc mỏ thật đó nhưng có thể tìm tòi để lựa chọn. Chắc gì đi ăn một bữa trăm đô ở đây - phải làm reservation, chờ đợi, đến đúng giờ - sẽ vui hơn mua một hộp cơm mười đồng từ một trong hàng ngàn xe bán thức ăn Halal hay Ấn-Độ khắp nơi trong thành phố, thêm chai nước, rồi mang ra bờ sông ngồi xem mặt trời xuống phía bên kia? Trã trăm đô cho Uber hay chuyến taxi ra phi trường có nhanh hơn và không lo trễ vì kẹt xe bằng kéo vali ra góc đường, xuống subway, trã 3 đồng đi đến một trạm ga gần phi trường rồi thêm gần 9 đồng AirTrain tới tận cổng máy bay.
 
Rồi dự định sẽ đưa người bạn và các bạn khác đến coi 911 Memorial. Đứng trước hai cái giếng nước khổng lồ ngày trước là nền của hai toà nhà nơi có mấy ngàn người chết mà không có cái giác ghê rợn, chỉ ngậm ngùi thương cảm. Trên các bức tường granite đen thấp bao quanh bởi những hàng cây phong xanh mát khắc tên nạn nhân, đó đây cắm một bông hồng trắng. Không thấy có biểu ngữ, hình ảnh, vật dụng nào quanh đây nhắc nhở việc nầy là tội ác của ai và phải báo thù bằng cách nào. Toà nhà bên cạnh trưng bày hình ảnh những người lính cứu hoả đang tìm cách xông vào những căn phòng đang cháy, sụp đổ để kéo ra người còn mắc kẹt. Họ cứu được rất nhiều người khác nhưng chính họ không bao giờ trở ra…Sức mạnh thật sự không nằm ở chỗ nuôi dưỡng, khêu dậy hận thù mà là khả năng vượt qua khó khăn tai biến cùng nhau. 
 
*
 
Mở tủ tìm chiếc áo trắng. Chiếc áo trắng mặc đi một đám tang mấy tuần trước bỏ giặt đã lấy về còn trong bao treo cạnh cả chục cái áo trắng khác. Cái cổ nhọn, cái cổ hơi tròn, cái có nút cài ở cổ, có cái không. Đàng sau là một hàng áo xanh đậm, xanh nhạt, áo sọc, áo ca-rô…Mình còn cần bao nhiêu cái áo trắng? Bao giờ mới xỏ tay lại vào những cái áo màu kia? Rồi cà-vạt với còm-lê? Nếu đã “hiểu” ra được less is more để từng bước buông bỏ những thứ cầm buộc đời mình: chỉ cần 2 cái áo trắng, hai bộ còm-lê, vài ba cái cà-vạt khác nhau cho đám cưới với đám ma…thì tại sao còn quá nhiều áo quần treo ở đây đóng bụi, choán chỗ mà chưa đem ra working wardrobes nơi có nhiều người cần đang chờ đợi. Tại sao nhiều cuốn sách dù trân quỷ cũng sẽ không bao giờ đọc lại còn nằm bám bụi trên tủ, chưa chạy ra Viện Việt Học hay thư viện gần nhà? Tại sao chưa dứt khoát buông bỏ mà phí thời giờ tìm kiếm, sắp đặt, giữ gỉn những thứ dư thừa không mang lại giá trị gì cho đời mình?
 
*
 
Ở xứ Mỹ nầy, quan hôn tang tế gì cũng phải đợi đến cuối tuần cho có đông người tới dự. Hai hôm trước gia đình người bạn đã làm lễ phát tang, cầu nguyện, thăm viếng ở nhà thờ rồi. Hôm nay, thứ Hai, là hoả thiêu. Chắc chỉ có gia đình thôi nhưng mong là họ không phiền hà khi thấy mình tới.
 
Gia đình rất đông ở nhà quàn và ai mắt cũng đỏ hoe, sụt sùi dù anh bạn tuổi đã cổ lai hy. Phải ăn ở ra sao mới được như thế. Rất yên lặng, không nghe tiếng cười rộn rã như ở vài đám tang khác. Không biết ai đã đọc điếu văn cho anh ở nhà thờ  nhưng đoán chắc là bài viết dễ dàng để soạn. Có nhiều người khi chết, người viết điếu văn phải vất vã tìm kiếm những điều tốt đẹp về họ để viết ra cho đầy một trang giấy. Với người bạn thì không, có quá nhiều điều tốt đẹp để nói về anh. Anh qua sau, có thể không thành đạt về vật chất như nhiều bạn đồng môn khác, nhưng chưa bao giờ nghe anh so sánh, phân bì, than thân trách phận. Anh ung dung sống đời mình giữa mọi người, chan hoà với tất cả…
 
*
 
Mấy tháng trước đi Úc, lần đầu. Nhiều người quen góp ý: qua đó khi tới coi Sydney Opera House nhớ chụp hình thiệt nhiều vì ngoài ra không còn gì để chụp nữa. Mình đâu muốn ngồi 15 tiếng máy bay để qua đó coi Opera House, chụp hình lại càng không, vì đâu có dùng Facebook đâu mà bỏ lên, rồi chia sẻ với ai. Qua để thăm hai người cháu gái đã gần năm mươi năm không gặp. Để gặp lại những người thân cùng lớn lên với nhau thuở họ còn ngày xưa ngần ngại xoã tóc trên vai. Mỗi người, mỗi gia đình là mỗi số phận, mỗi câu chuyện để nghe, học hỏi và nhìn lại đời mình. Lúc ra đi có người đã lớn, có thể phụ nhen bếp lửa nấu nồi cơm, giúp sửa soạn bữa cơm chiều khi đi học về sớm.  Có người còn bồng bế trên tay… thế mà bây giờ đã con đàn cháu đống, cuộc đời qua nhanh quá. Bao năm đã qua, vật đổi sao dời mà gặp nhau vẫn rất ấm áp thân tình, vui buồn nhắc chuyện ngày xưa không dứt. Vài chuyện nhỏ mình làm được nhắc nhớ tới. Những  vụng dại, sai sót, ngông cuồng thời trai trẽ lại được quên đi…
 
Một buổi sáng, cô cháu gái rủ ra đi bộ bên con sông cạnh nhà vì cô thích sông và biết mình cũng mê sông. Sinh ra ở cạnh sông. Lớn lên ở cạnh sông, hằng ngày ngóng nghe tiếng còi tàu từ Huế lên về sáng chiều hai buổi. Lớn lên nữa cũng ở cạnh sông, mở cửa là thấy sông, mỗi chiều có tiếng chuông chùa vọng lại từ phía bên kia sông…vì thế mà sông như mạch máu trong thân thể. Đi đâu cũng tìm sông tìm nước.
 
Sẽ không bao giờ tới được cảnh giới nhìn sông chỉ thấy là sông, nhìn núi chỉ biết là núi:
 
Mù toả Lô sơn sóng Chiết giang.
Khi chưa đến đó hận muôn vàn.
Đến rồi về lại không gì lạ.
Mù toả Lô sơn sóng Chiết giang (tdp, Tuệ Sỹ dịch)
 
mà còn so sánh, phân biệt sông nầy với sông kia. Con sông cạnh nhà  nhỏ thôi, chậm rãi êm đềm chảy, với con đường quanh dọc theo bờ dưới hàng cây mát, những băng ghế trên bãi cỏ ven bờ, những căn nhà thơ mộng trên đồi bên kia sông…Trên đường về ghé lại một quán ca-phê vô cùng duyên dáng góc khu vực dân cư. Ly cappuchino mới ngon làm sao, quên hết lời hăm he của ông bác-sĩ bên nhà. Đùa với cô cháu cứ mỗi sáng ra bờ sông đi bộ rồi ghé lại đây uống cà-phê, tiếp tục nói chuyện ngày xưa, là đã quá đủ rồi. Cần chi phải lên City để thấy và chụp vài tấm hình cạnh Opera House.
 
*
 
Ghé khu chợ Cabramatta giao cuốn photo book của người bạn gởi sang cho một cặp vợ chồng quen sau khi đi Melbourne về. Chia sẽ với họ những gì mình thấy, “trải nghiệm” trong hai ngày ngắn ngủi ở đó. Một thành phố nhỏ thôi nhưng vô cùng duyên dáng, phảng phất cái phong thái đậm đà của nhiều thành phố Âu Châu đã đi qua. Đường phố rợp bóng cây, với những quán cà-phê có thể ngồi hằng giờ trò chuyện với bạn bè nhìn người qua lại. Ghé coi thư viện độc đáo của thành phố trên đường đến Royal Botanic Gardens Victoria. Đi ra coi mặt trời lặn trên sông Yarra êm đềm – lại sông! Thăm người bạn thời một bờ cỏ non một bờ mộng mị ngày xưa (tcs), đã hứa sẽ dành riêng nguyên một ngày để uống với nhau ly cà-phê bên cạnh bờ hồ vắng nói chuyện đời mình. Rồi đi coi đàn dơi mặt chồn treo lắt lẻo bất động trên khắp một vườn cây cao trong buổi trưa nắng nóng nhìn xa như những chiếc túi xách tay sẫm màu treo trong cửa hàng, chờ tối đến cùng nhau bay đi tìm mồi…
 
Nghe xong, người vợ quay qua nói với chồng sao mình ở đây mấy chục năm mà không thấy những thứ nầy, mình phải đi lại ngay đi anh. Ai cũng đi tìm hạnh phúc cho đời mình có điều không hạnh phúc nào giống hạnh phúc nào. Họ có thể không thấy những cái đẹp mà mình thấy: góc phố, hàng cây, những quán cà-phê bên đường, bờ hồ, chiều về trên sông, thư viện…nhưng bù lại họ có thể sở hữu biết bao nhiêu thứ đẹp đẽ khác mà mình không có: những bữa ăn đắt tiền, những đồ vật hoành tráng, những chuyến du lịch sang trọng nhiều người mơ ước..Và có thể là họ là chủ của biết bao nhiêu dãy phố ở chung quanh khu vực Cabramatta nầy.
 
*
 
Cô cháu gái kể người con gái lớn mới tặng mẹ một cuốn sách trong ngày sinh nhật: The Top Five Regrets of the Dying. Cuốn sách được nói tới nhiều giữa những người đang loay hoay tự hỏi phải nên sống như thế nào mà mình đã đọc qua và chắc chắn sẽ đọc lại nhiều lần.
 
Phải như thế nào mới không “sợ” khi nhận món quà sinh nhật nầy, với cái suy nghĩ Á Đông xưa cũ, mà biết con hiểu, chia sẽ và tôn trọng cái gì là giá trị đích thực, quan trọng nhất cho hạnh phúc đời mình. Cô con gái không dành dụm mua biếu mẹ trong dịp sinh nhật cái xách tay hàng hiệu Louis Vuitton, Chanel để mang trên vai xoay ra phía trước chụp hình, hay cái đồng hồ Cartier bao người mong ước được người khác thấy trên cổ tay mình, hay khiêm nhường nhất cũng upgrade cái Iphone hay Ipad cho mẹ, mà trao gởi lòng yêu thương qua cuốn sách giúp sống thế nào để ít hối tiếc khi ra đi. Có gì có giá trị hơn?
 
Những người chạy marathon cần gì từ bạn bè, gia đình, những người tình nguyện đứng bên đường họ chạy qua để thêm sức mà về tới đích? Bánh trái rượu thịt hay chỉ là một ly nước kèm theo những tiếng vỗ tay, những lời la hét love you Mom, love you Dad, yes you can do it. Hay là những tấm bảng bìa cứng đưa cao khích lệ mà đầy diễu cợt you run too fast, you are over speed limit.
 
Cô cháu gái mới ngoài năm mươi nhưng hiểu được cốt tuỷ của đạo Phật và, quan trọng hơn, không ngừng học hỏi và áp dụng được Phật học vào đời sống của mình. Hiểu được sự ngắn ngủi và vô thường của cuộc đời để bớt chấp nê, dần dần buông bỏ bớt. Không nghe than vãn, ai oán, cay đắng, so sánh vì những khó khăn đời mình đã trải qua ngay từ lúc còn nhỏ dại, mà nghĩ được rằng nhờ đó mà mình trở thành một người như hôm nay. Nhờ đó mà mình có thêm lòng trắc ẩn, biết thế nào là “đủ” để sống chan hoà với người khác và trợ giúp người yếu kém. Một cuộc đời ung dung, tự tại, thênh thang….
 
*
 
Bronnie Ware, tác giả cùa cuốn sách Năm Điều Hối Tiếc Nhất Của Những Người Sắp Qua Đời là người Úc, soạn nhạc, viết lách…Bà làm thêm việc chăm sóc những người sắp qua đời ở nhiều lứa tuổi, thành phần xã hội, hoàn cảnh gia đình, giới tính. Bà đúc kết những điều bà nghe trong những ngày chăm sóc, chuyện trò với những người biết mình sắp mất rồi chia sẻ trên những trang mạn xã hội trước khi gom lại thành cuốn sách nầy, The Top Five Regrets of the Dying: A Life Transformed by the Dearly Departing.
 
Đây là năm điều hối tiếc: 1- Không có can đảm sống cuộc đời cho chính mình mà sống theo ước muốn của người khác. 2- Làm việc nhiều quá. 3- Không có can đảm bày tỏ cảm xúc của mình. 4- Không giữ mối liên hệ với bạn bè và 5- Không tự cho phép mình được sống hạnh phúc hơn.
 
Chỉ mới năm điều nầy thôi mà cũng đã thấy sự khác biệt giữa văn hoá Đông Tây. Nếu bà nầy săn sóc cho những người phía Đông thì đã biết thêm nhiều điều hối tiếc khác. Hối tiếc vì đã không tử tế đủ với người khác, giúp họ vượt qua cơn ngặt nghèo khi mình có thể. Hay hối tiếc, như một chị bạn nói trước khi lâm chung, vì: ông biết không, trong đời tôi, tôi đã làm nhiều chuyện không nên làm để vượt hơn người khác, chừ biết thì cũng đã trễ rồi…
 
*
 
Mới đây, tình cờ nghe bài My Way qua tiếng hát tuyệt vời tràn đầy cảm xúc của Vanny Vabiola, một người Indonesia. Nhờ có phụ đề mà hiểu thêm để đồng cảm và yêu mến hơn bài hát nầy. Đã nghe đi nghe lại không biết bao nhiên lần rồi và gởi tới bạn bè khắp nơi, ai cũng thích. Mong ước rồi ai cũng sẽ nói được như thế nầy: My friend, I will say it clear…I’ve lived my life that it’s full. I traveled each and every highway…  Regrets, I’ve had a few. But then again , too few to metion…
 
Nguyễn Q.
June, 2024
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi chưa bị bắt, và bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần – có lần – Nguyễn Thúy Hạnh kể lại một câu chuyện hơi tếu táo (“Chuyện Một Người Bất Đồng Chính Kiến”) nhưng nghe rồi tôi lại thoáng buồn buồn: Bác tên là Nguyễn Thế Đàm, người từng hai lần bị tống vào hoả lò cũ và hoả lò mới, rồi hai lần bị đẩy vào trại tâm thần, Trâu Quỳ và Thường Tín. “Tôi khẳng định ông ấy bị điên. Cả thế giới người ta thấy mà lặng im ko nói, chỉ một mình ông ấy nói ra, thế chả là điên thì là gì?”Giám đốc bệnh viện tâm thần thời đó đã nói vậy khi vợ bác khăng khăng chồng mình ko bị điên. Vậy bác Đàm “nói” cái gì? Đó là những truyền đơn nhằm vào ông Hồ, mục đích để ông Hồ ko còn là thánh, trong đó thường gọi ông Hồ là “ngu Hồ”, và rằng chủ nghĩa Mác là phản động… Thời những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ trước mà đi rải truyền đơn hạ bệ lãnh tụ, lại còn viết đủ cả tên tuổi, địa chỉ và số điện thoại của mình vào truyền đơn rồi đi phát tận tay từng người thì quả đúng là vuốt râu hùm.
Từ Montreal Canada đến Detroit mất hai tiếng rưỡi, rồi từ Detroit bang Michigan Hoa Kỳ đến Nhật Bản khoảng 13 tiếng rưỡi, dù máy bay có rộng rãi cách mấy, tiện nghi bao nhiêu đi nữa cũng làm tôi không sao chợp mắt được; trên máy bay chúng tôi được phục vụ một bữa chính gồm khoai tây nghiền với gà hầm cà chua thơm ngon, một salad, một thanh cheese, một desert, một chai rượu đỏ hoặc trắng tùy khách chọn, vừa ăn uống vừa coi hết film này đến film khác; khoảng 3,4 tiếng sau lại cho ăn tiếp lót dạ một pizza với sauce cà chua cá hồi, đồ uống nước cam, coke hay trà thì được phục vụ liên tục. Sau bữa ăn mọi người ai nấy dập dìu viếng thăm căn phòng nhỏ cuối máy bay, xếp hàng dài chờ phiên mình; mục này cũng làm cho mọi người đứng lên di chuyển, vươn vai, duỗi chân cho đỡ mệt mỏi.
Lúc sau này tôi bỗng thích nghịch ngợm chút đỉnh. Nghịch ngợm là cái thú của thời con nít với những côn trùng thân yêu như dế mèn, chuồn chuồn, đom đóm, ve sầu, chim sáo, chào mào. Sau khi phổ biến ba bài Ve Sầu, Chuồn Chuồn và Đom Đóm, các ông bạn già của tôi coi bộ phấn khích như sống lại tuổi thơ. Một ông hỏi tôi đã viết về bươm bướm chưa? Tôi ngẩn người nhớ lại và cho ông bạn biết là bướm không biết bay thì viết rồi, bướm bay thì chưa. Ông này vốn chân chỉ hạt bột, chỉ thích bướm bay, để ông nhớ tới thời đã mất.
**01/10 -- Bùi Diễm (01/10/1923– 24/10/2021) là một chính khách Việt Nam. Ông nắm giữ chức vụ Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ nhiệm kỳ từ năm 1967 đến năm 1972. --1908 - Mẫu xe T của Henry Ford, một "chiếc xe phổ thông" được thiết kế cho đại chúng, được bán lần đầu tiên. -- 1938 - Quân đội của Hitler chiếm đóng phần Sudetenland của Tiệp Khắc. Trong nỗ lực tránh chiến tranh, các nhà lãnh đạo Anh và Pháp đã đồng ý nhượng khu vực nói tiếng Đức cho Hitler, người sau đó đã phá vỡ thỏa thuận và chiếm đóng toàn bộ Tiệp Khắc.
Hãy thử nhớ lại lần gần đây nhất quý vị viết ghi chú, một ghi chú ngắn hoặc danh sách mua sắm chẳng hạn. Có thể quý vị đã không dùng tới giấy và viết. Hơn mười năm qua, bàn phím và màn hình đã lặng lẽ thay thế chữ viết tay trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, từ trường, lớp cho đến các cuộc họp hành. Thậm chí, một số trường học trên thế giới đã ngừng hoàn toàn việc rèn chữ viết (cursive).
Tôi là dân Huế chính gốc 100% tức là dân Huế “chay”, Huế rất chi là Huế, Huế từ đầu đến chân, Huế từ trong ra ngoài nên phát âm các chữ có dấu HỎI-NGÃ rất tùy tiện, phóng túng, hoàn toàn không giống người dân ở miền Bắc của Cố Đô Thăng Long, mặc dù Huế của chúng tôi cũng là Cố Đô Ngàn Năm Văn Vật. Do đó dân Huế chúng tôi sợ nhất là những chữ có dấu HỎI-NGÃ lúc viết bài thi chính tả, dù đã học thật kỹ cuốn sách viết về luật HỎI, NGÃ của Thầy Lê Hiếu Kính.
“Cò” đây chẳng phải “Con Cò mày đi ăn đêm” mà cũng chẳng phải “Cái Cò súng của các ông”, không phải, giời ạ. Cò-cảnh-sát hay Cò-mồi lại càng không phải nốt. Cò đây là Thầy Cò. Đúng ra phải gọi là Cô Cò hoặc Bà Cò thì chính xác hơn, nhưng trong ngôn ngữ tiếng Việt tôi chưa thấy ai gọi như thế bao giờ, nghe nó tréo ngoe, nó chỏi tai thế nào ấy. Có lẽ tại cái “nghề Cò” từ hồi nảo hồi nào chỉ toàn do các ông đảm nhiệm. Nhưng thời buổi bây giờ, thời buổi mà các bà các cô có thừa bản lĩnh để xâm chiếm hầu hết các lãnh vực trong nhà (thì đã đành) cũng như ngoài phố thì chắc chắn đã có nhiều Cò phái nữ, mà tôi là một thí dụ điển hình.
Từ khi sinh ra và biết nhận thức thì nhớ/quên gắn liền với cuộc sống hằng ngày cho đến khi lìa trần. Phân Tâm Học ((Psychoanalysis) đã giải thích về nhớ/quên theo trình tự thời gian từ tuổi thơ đến tuổi già nhưng thực tế nó không hoàn toàn như vậy mà tùy theo hoàn cảnh, môi trường sống, giáo dục, xã hội… biến động tâm lý ảnh hưởng đến từng cá nhân với não bộ.
Hồi đó chúng tôi học triết lớp 12C, chúng tôi học với cô Chu Kim Long và có tuần với thầy Vĩnh Để. Cả hai giáo sư của chúng tôi chia giờ ra giảng dậy về tâm lý học rồi phân tâm học về vô thức của triết gia Simon Freud. Phần lý luận học và đạo đức học thì dễ dàng hơn. Riêng phần tâm lý học, nhất là tâm lý học ngôi thứ ba khúc mắc, ở phần dằng co giữa ý thức và vô thức… thành ra bài học bài giảng làm chúng tôi điên đầu và cô, thầy chúng tôi cũng khô cổ họng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.