“Sông sâu còn có kẻ dò,
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”
(Ca Dao)
Khi Hiệp Định Paris sắp được Mỹ ký kết với Bắc Việt, TT Nguyễn Văn Thiệu đã phản đối vì có những điều khoản bất lợi cho VNCH. Trong lá thư của TT Mỹ Richard Nixon gởi TT Thiệu ngày 16/1/1973: “Tôi đã quyết định sẽ ký hiệp định vào ngày 23/1/1973 tại Paris… Trong trường hợp đó, tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản trở hòa bình”. Thế rồi sau đó người bạn đồng minh “tháo chạy” cắt đứt mọi viện trợ quân sự và tài chánh vì vậy Quân Lực VNCH chiến đấu trong đơn độc thiếu đạn dược, phi cơ, xăng dầu… ngay cả đề nghị vay nợ ba trăm triệu Mỹ kim cũng bị Quốc Hội Mỹ bác bỏ!
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Nhìn lại lịch sử quá khứ giữa bạn và thù chỉ trong gang tấc, hôm trước là bạn, hôm sau là thù. Huynh đệ tương tàn!
Cuối thời Xuân Thu (722-480 trước Công Nguyên) & Thời Chiến Quốc (481-221 trước CN) ở Trung Hoa, tại đất Dương Thành có Vương Dũ, một ẩn sĩ chọn Vân Mộng Sơn làm nơi tu luyện. Tiên sinh tài năng trí tuệ tuyệt vời, được thiên hạ xưng tụng Quỷ Cốc tiên sinh, là người biết suy việc trước, đoán việc sau, thao lược biến hóa vô cùng, bố trận điều binh rất diệu, kiến thức uyên bác, mưu lược khôn lường và có tấm lòng khoan dung độ lượng. Tiên sinh rất kén chọn đệ tử, trong số môn sinh thụ giáo đó có 4 nhân vật mà hơn hai nghìn năm vẫn thường nhắc nhở: Bàng Quyên, Tôn Tẫn, Trương Nghi, Tô Tần.
Cùng thọ giáo sư phụ uyên thâm, đức độ, cùng am cùng cốc, cùng chia ngọt xẻ bùi, luận kiếm bàn văn... Thế nhưng vì danh vì lợi, vì lòng đố kỵ hơn thua, từ bạn biến thành mối thâm thù lưu truyền mãi với đời, làm bài học suy ngẫm cho thế thái nhân tình, cho tâm địa của con người trước âm mưu hành sử “cạn tàu ráo máng”.
Bàng Quyên người nước Ngụy, Tôn Tẫn người nước Tề cùng lúc, cùng thời, nhập cuộc làm đồ đệ của Quỷ Cốc tiên sinh. Sau 3 năm thọ giáo, trước khi hạ san, Bàng Quyên có thề nguyền và hứa hẹn với bạn đồng môn Tôn Tẫn sẽ tận tình giúp đỡ người bạn đồng môn nên danh nên phận.
Với tài kinh luân, thao lược, Bàng Quyên được tiến cử làm quân sư cho Ngụy Huệ Vương, nhập cuộc, bách chiến bách thắng, tiếng tăm lẫy lừng, được hưởng bổng lộc triều đình nên đem lòng ngạo mạn, kiêu căng và muốn độc quyền trong địa vị. Bàng Quyên nghĩ tới người bạn đồng môn Tôn Tẫn, không muốn tiến cử vì biết người bạn lại giỏi hơn mình nên nghĩ tới mối nguy của người bạn lấn mình hơn là chung lưng sát cánh với mình. Bàng Quyên làm ngơ người bạn đồng môn Tôn Tẫn như đã hứa thề.
Biết tài Tôn Tẫn, Mặc Địch thấy chuyện bất bình nên yết kiến Ngụy Huệ Vương để tiến cử Tôn Tẫn. Bàng Quyên đành lòng đón rước Tôn Tẫn về giúp Huệ Vương. Bàng Quyên vừa bầy tỏ thâm tình thắm thiết vừa âm mưu lập mưu kế hãm hại, trong khi đó Tôn Tẫn cả tin nên bị mắc bẫy. Ngụy Huệ Vương chặt giò Tôn Tẫn và cho thọ án hình.
Bàng Quyên giả lòng nhân ái, nhận lãnh Tôn Tẫn về cho ăn ở nhưng thật tình cố ép Tôn Tẫn chép lại bộ binh thư mà sư phụ đã truyền dạy riêng cho Tôn Tẫn năm xưa, Bàng Quyên không được sư phụ truyền đạt.
Tôn Tẫn vỡ lẽ, bèn tương kế tựu kế, giả khùng giả điên, thần kinh bấn loạn. Bàng Quyên bèn phơi bày tâm địa của mình, nhốt Tôn Tẫn vào chuồng heo để coi Tôn Tẫn điên thật hay giả, Tôn Tẫn thản nhiên ăn ở chung với heo.
Mặc Địch biết chuyện, thương người có tài gặp hoạn nạn, tìm cách liên lạc cho Điền Kỵ biết, lập phương kế sang Ngụy để nhận kẻ điên và cụt giò về Tề. Tôn Tẫn trở lại bình thường và được Tề Hầu phong làm Quân Sư.
Ngụy, Tề xảy ra chiến trận. Bàng Quyên thống lãnh ba quân của Ngụy, Tôn Tẫn coi đạo quân của Tề, dụ Bàng Quyên tới Mã Lăng, quân Ngụy bị đánh tan nát, Bàng Quyên bị vây khốn, chợt thấy nơi cây đại thọ có hàng chữ được khắc trước: “Bàng Quyên tử thử thọ hạ. Quân sư Tôn thị”. Binh phục của Tôn Tẫn bắn chết Bàng Quyên như lời thề của Tôn Tẫn dưới gốc cây nầy quyết tiêu diệt người bạn lòng lang dạ thú, táng tận lương tâm.
Bàng Quyên và Tôn Tẫn, hai người bạn đồng môn, trở thành hai kẻ thâm thù truyền kiếp.
Tôn Tẫn sau khi rửa được mối thâm thù, lập được công danh, chán cảnh hồng trần, từ bỏ danh lợi vào núi ẩn dật, tu tiên, bầu bạn với trời mây sông nước.
Tôn Tẫn được nhiều nhà sử học cho là cháu đích tôn của Tôn Tử (514 - 496 trước CN), một nhà quân sự, chiến lược tài tình ở nước Ngô, cuối thời Xuân Thu.
Tôn Tử, tên Vũ, tự Tràng Khanh, ở Lạc An, nước Tề, có nhiều giai thoại nói về bước tiến thân của Tôn Tử với Ngô Vương, tự mình tiến thân, Ngũ Tử Tư đề cử, giúp Ngô Vương đánh Sở, chinh phục Tấn, Tần. Lập ra “Mười Ba Thiên Binh Pháp” nói về kỹ thuật điều binh khiển tướng, mưu lược, dụng trí, tình báo... ý văn dồi dào, sâu sắc chung quanh cũng về Ta-Địch giữa Bạn-Thù.
Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên (145-90 trước CN): “Tôn Tử tên là Vũ, người Tề, nhân dâng binh thư, được vào yết kiến Ngô Vương Lạp Lư... Lạp Lư biết Tôn Tử có tài dụng binh bèn dùng ông làm tướng. Tây phá được cường Sở, vào được Dĩnh Đô, Bắc uy hiếp được Tề, Tấn nổi tiếng với chư hầu, phần nào nhờ có sức Tôn Tử. Tôn Vũ chết rồi, hơn trăm năm sau có Tôn Tẫn, sinh ở vùng A Quyên, cũng là dòng dõi Tôn Vũ...
... Ngô Khởi người Vệ, thích quân sự, đã từng theo học Tăng Tử và thờ Lỗ Quân. Tề đánh Lỗ, Lỗ Quân muốn phong Ngô Khởi làm tướng nhưng vì vợ Ngô Khởi là người Tề, nên còn ngờ, muốn cho danh phận được trót lọt, Ngô Khởi bèn giết vợ để chứng tỏ mình không thân Tề. Và Ngô Khởi được Lỗ phong tướng. Ngô Khởi cầm quân đánh Tề và quân Tề bị tan rã”.
Sau nầy thêm phần bổ túc của Ngô Khởi, người nước Vệ, đời Đông Châu (Ngô Khởi là người giết vợ tiến thân) nên được gọi là Tôn Ngô Binh Pháp.
Theo Hán Thư Nghệ Văn Chi, sách binh pháp của Ngô Khởi có 48 thiên và hiện chỉ còn lưu lại 6 thiên về Đồ Quốc, Liệu Địch, Trị Binh, Luận Tướng, Biến Hóa, Lệ Sĩ.
Tôn Tử viết: “Đẩy vào tử địa rồi sẽ còn, dồn vào đất chết rồi sẽ sống” cho thấy khi bị dồn đến mức tận cùng bao giờ cũng nẩy ra sức đề kháng, phản công phi thường. Ông bà ta cũng khuyên chớ nên dồn chó vào chân tường. Vì vậy, ở đời nên học lấy lời người xưa mà giữ mình. Tôn Tẫn đã biết sống, cam chịu cực hình, nhịn nhục để nuôi chí phục thù, loại trừ phần tử xấu xa trong xã hội.
Lịch sử Việt Nam đã để lại hậu thế biết bao “bài học đau thương” giữa những con người đã làm nên trang sử vẻ vang cho dân tộc nhưng trong tận cùng sâu thẳm của tâm thức trở thành niềm đau nhức nhói. Điển hình như hình ảnh đau thương của vị đại công thần dân tộc, một lòng cho sơn hà xã tắc cuối cùng bị bội phản bởi bằng hữu một thời gian lao, khổ đau bên nhau, cùng cắt máu thề nguyền ở hội thề Lũng Nhai trong giai đoạn khởi nghĩa chống kẻ thù bạo tàn Bắc phương!.
Khi nước nhà bị quân nhà Minh xâm lăng, bạo tàn và khát máu. Nơi núi rừng Lam Sơn, hội thề Lũng Nhai qui tụ 28 người con thân yêu của tổ quốc, đã tìm đến với nhau, cắt máu thề nguyền, nguyện vào sinh ra tử, chấp nhận muôn ngàn gian lao nguy hiểm, khổ cực một lòng, sống chết bên nhau. Lời thề ấy đã tạo thành sức mạnh nhiệm mầu trong suốt 10 năm (1418-1427) nằm gai nếm mật, đánh đuổi giặc Minh, quang phục tổ quốc. Nguyễn Trãi (1380-1442) cùng với Lê Lợi mang nặng thù nhà, nợ nước, quyết một lòng đánh đuổi quân Minh. Hình ảnh “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” đã làm nên trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Trong gian lao, Bình Định Vương Lê Lợi xem Nguyễn Trãi (cháu ngoại Trần Nguyên Đán) và Trần Nguyên Hãn (cháu nội Trần Nguyên Đán) trong tình ruột thịt như máu và tim.
Đánh đuổi được giặc Minh ở Bắc phương, vị anh hùng dân tộc áo vải Lam Sơn trở thành hoàng đế, lập ra triều đại Tiền Lê (1428-1527), đem lại thanh bình cho đất nước.
Thế nhưng! trong ánh hào quang của giai đoạn đầu bước chân vào ngưỡng cửa danh vọng, bởi danh và lợi, triều đình quy nạp bầy tôi đố kỵ, nịnh bợ... biến bạn thành thù, tấu hót với nhà Vua để loại trừ những công thần đã tận trung với nước.
Lê Thái Tổ (1428-1433) đã ghi lại trang sử vàng son cho dân tộc, tiếc rằng nhà vua cho bắt giết Tả Tướng Trần Nguyên Hãn, Thái Úy Phạm Văn Xảo... và ngay cả đệ nhất công thần Nhập Nội Hành Khiển, Lại Bộ Thượng Thư Nguyễn Trãi cũng bị hạ ngục. Trong lúc gian nguy, bạn cùng chí hướng có nhau đến khi thái bình bị đám bầy tôi chỉ biết ganh ghét ăn hại, đem lời gièm pha, lung lạc tình cảm với bậc minh quân chuyển bạn thành thù trong miếng đỉnh chung.
Đến đời Lê Thái Tông (1434-1442), Nguyễn Trãi đã trải qua bao giai đoạn thăng trầm, điêu linh trong lúc triều đại xảy ra diễn biến dồn dập bởi bọn nịnh thần, năm 1437, Nguyễn Trãi lui về quy ẩn vói cỏ cây ở núi Lam Sơn nhưng rồi oan nghiệt lại ập đến trong vụ án Lệ Chi Viên, nhận lãnh bản án thảm khốc “tru di tam tộc”!
Trong cuốn Việt Nam Sử Lược, cụ Trần Trọng Kim ghi lại những dòng ai oán:
“Nghĩ mà buồn thay cho mấy người công thần đời xưa chỉ lầm ví hai chữ công danh mà đem tấm lòng son sắt đi phù tá quân vương trong lúc gian nguy, mong được chút hiển vinh để cho thỏa cái chí trượng phu ở đời, ngờ đâu chim bay đã hết, cung tốt cất đi, thỏ lanh chết rồi, chó săn phải giết; đến khi công việc xong rồi thì không những là một thân một mình cũng không được trọn vẹn mà cả họ hàng thường cũng vạ lây! Thế mới biết, chỉ có Trương Tử Phòng nhà Hán là người kiến cơ hơn cả”.
Tài năng và đức độ của bậc chính nhân quân tử đã có ảnh hưởng quan trọng, vì thế Nguyễn Trãi chết đi nhưng không bị uất hận nghìn thu.
Hai mươi năm sau đời Lê Nhân Tông (1443-1459), vua Lê Thánh Tông (1460-1497) nhận biết được tấm lòng và thiên tài Nguyễn Trãi nên cởi oan khiên, truy phong chức tước, tên tuổi của Nguyễn Trãi được lưu truyền hậu thế. Lê Thánh Tông cho đi tìm con cháu lưu lạc sống sót để được hưởng bổng lộc.
Chân dung Nguyễn Trãi còn được ghi tạc trong câu thơ của Lê Thánh Tông:
“Tấm lòng Nguyễn Trãi sáng đẹp như sao Khuê,” để đời đời ghi nhớ.
Khi oan nghiệt của Nguyễn Trãi về sau được Lê Thánh Tông giải oan và phục hồi danh dự, tuy muộn màng nhưng đã tô điểm lại vết son đã bị bôi đen cho triều đại nhà Lê.
Nhắc đến nhà Minh, trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký của nhà văn Kim Dung vào thế kỷ XIV, tuy tiểu thuyết hư cấu nhưng liên quan đến lịch sử Trung Hoa. Kim Dung mô tả Chu Nguyên Chương chỉ là phường áo rách khố ôm, chăn dê, chăn bò cho địa chủ, gia nhập Minh Giáo, dần dà được cất nhắc lên vị trí cao trong Minh Giáo, góp công lớn tiêu diệt nhà Nguyên và bè đảng Trần Hữu Lượng, lập ra nhà Minh.
Hai đại công thần với Chu Nguyên Chương và Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân, cùng cắt máu ăn thề. Sau khi Chu Nguyên Chương lên ngôi, hai nhân vật nầy được trở thành đại tướng quân. Nhưng bản chất đa nghi của Chu Nguyên Chương nên ra tay tàn nhẫn sát hại công thần và tất cả thân tín bị kết tội nghịch thần! Lịch sử Trung Hoa ghi nhận, trong 14 năm, hoàng đế Chu Nguyên Chương đã giết 45.000 người, chủ yếu là các công thần, lão tướng và họ hàng thân tộc của họ! Một con người tàn bạo, giết người không gớm tay.
Trong lịch sử Việt Nam cũng thường đề cập đến hình ảnh hai người bạn đã một thời sinh hoạt cùng chiến tuyến rồi trở thành đối nghịch: Đặng Trần Thường và Ngô Thì Nhậm vào thời Nguyễn - Tây Sơn cách đây tròn hai thế kỷ.
Nhân đây, đề cập trong lãnh vực văn chương qua vài câu đối đã lưu lại hậu thế, còn trong chính trị thì nhan nhản.
Đặng Trần Thường (1759-1813), người Nam Định, trước kia theo Tây Sơn cùng với Ngô Thì Nhậm, cả hai đều uyên bác nên thường tranh chấp và bất đồng ý kiến, Đặng Trần Thường vào Gia Định, theo Nguyễn Ánh, chống lại Tây Sơn. Ông được thăng chức từ Tán Lý đến Binh Bộ thượng thư. Khi đạt được vinh quang, ông có tính cao ngạo, hiềm khích với mọi người.
Ngô Thì Nhậm (1746-1803), nhà ngoại giao lỗi lạc, khi quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc để “phò Lê diệt Trịnh”, Ngô Thì Nhậm được tiến cử phong chức Công Bộ thị lang, mưu thần trong quân trướng. Khi quân Thanh đem quân sang xâm lăng nước ta, Ngô Thì Nhậm đã sát cánh cùng vua Quang Trung đánh đuổi quân Thanh; ông được đảm nhận Binh Bộ Thượng Thư và Chánh Sứ.
Vua Quang Trung ngợi khen về Ngô Thì Nhậm: “Ngọn bút của Ngô Thì Nhậm có sức mạnh phi thường, ngăn được 20 vạn quân sĩ nhà Thanh”.
Khi nhà Nguyễn tiêu diệt Tây Sơn, Ngô Thời Nhậm bị bắt giải về Bắc Thành, vẫn hào khí, một lòng với Tây Sơn nên khi bị Đặng Trần Thường trả đũa vì mối tị hiềm bất đồng chính kiến năm xưa, bèn ra câu đối móc hiểm.
“Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai ai dễ biết ai?”.
Ngô Thời Nhậm thản nhiên đối đáp: “Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thời phải thế!”.
Đặng Trần Thường sai người đánh Ngô Thời Nhậm đến chết. Oan khiên quả báo, sau nầy đại quan Đặng Trần Thường hiềm khích với tướng quân Lê Chất, bị Lê Chất tố ngược, vướng phải lỗi lầm, hạ ngục và bị xử giáo.
Thời kỳ Tự Đức (1847-1883) thực dân Pháp xâm lăng VN, hòa ước Nhâm Tuất, Pháp bắt triều đình Huế ký 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ cho Pháp. Trong thời buổi nhiễu nhương đó, có hai ông bạn “văn hữu” Phan Văn Trị & Tôn Thọ Tường, người vì dân tộc, quê hương, kẻ vì vinh thân phì gia nên dứt bạn thành thù.
Phan Văn Trị (1830-1910), người Vĩnh Long, thường gọi là Cử Trị và Tôn Thọ Tường (1825-1877), tỉnh Gia Định. Cả hai cùng sinh hoạt thơ văn với nhau với nhau, tham gia trong nhóm Bạch Mai Thi Xã, bầu rượu túi thơ, tương tri tương đắc.
Đau thương trước hoạn nạn của đất nước, không chịu ra hợp tác với thực dân Pháp để được hưởng vinh hiển mà cùng nhóm sĩ phu nổi dậy chống Pháp. Giao du với nhiều nhà nho yêu nước ở miền Nam như Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông..., Phan Văn Trị được thực dân mời hợp tác nhưng đã từ chối và dùng ngòi bút của kẻ sĩ yêu nước bút chiến với “văn hữu” Tôn Thọ Tường. Phan Văn Trị coi Tôn Thọ Tường như kẻ thù ngu dại, dơ bẩn và tồi tệ đã mượn “hơi hùm” của thực dân để phản bội đất nước, ông cảm thấy xấu hổ vì có người bạn trong thi xã năm xưa. Trong các bài thơ bút chiến, Phan Văn Trị đã khẳng khái chửi thẳng vào bọn tham quan hại dân hại nước, trong đó có Tôn Thọ Tường:
“Đứa dại trót đời già cũng dại
Lựa là tuổi mới một đôi mươi”.
Tôn Thọ Tường theo thực dân Pháp, mượn thơ văn để lấp liếm thái độ “thức thời” của “Từ Thứ Quy Tào” nên trả đũa lại Phan Văn Trị:
“Trâu ngựa dù kêu chi cũng mặc,
Thân còn chẳng kể, kể chi danh”
Trong cuộc bút chiến, ngoài Mười Bài Liên Hoàn của Tôn Thọ Tường, và bài Tôn Phu Nhân Quy Thục mượn hình ảnh ngày xưa trước thời thế để nói thái độ thức thời của ông. Phan Văn Trị đã họa lại Mười Bài Liên Hoàn đó và bài Cảm Hoài gồm mười bài để họa lại bài thơ Tôn Phu Nhân Quy Thục.
Khi Tôn Thọ Tường qua đời, Phan Văn Trị chỉ sáng tác những dòng thơ nói về niềm đau của đất nước bị xâm lăng, không nhắc gì về Tôn Thọ Tường.
*
Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Phan Văn Trị... với tâm hồn trong sáng, thái độ minh bạch, con đường chính đạo, qua thời gian và lịch sử dù có biến thiên nhưng vẫn không phai mờ.
Nhà văn Pháp Voltaire (1694-1778) còn là một triết gia và nhà lý luận cho rằng có thể đề phòng với kẻ thù nhưng không thể đề phòng với bạn. Thực tế đã chứng minh rất nhiều trong lịch sử.
Nói đến kẻ thù, nói đến mối hiểm nguy, đáng sợ. Saadi đã nói rất chí lý kẻ thù của bạn dù khiêm nhượng đến đâu, bạn phải nên nhớ, hắn là kẻ đáng sợ.
Nói đến bạn, trong tiếng Anh, Pháp, Hán... và nhất là ngôn ngữ chúng ta có rất nhiều từ để gọi tùy theo nghề nghiệp, chức năng, hoàn cảnh, môi trường... áp dụng cho phù hợp với ý nghĩa của nó. Mỗi từ (chữ), tự nó thể hiện ý nghĩa sâu sắc, biết được thân hay sơ, tri kỷ tri bỉ, qua đường. Với thù, có lẽ chẳng có bao nhiêu từ. Đã thù thì luận giải cho nhiều làm gì, nhọc công, tốn sức.
Một người bạn xấu chỉ hãm hại được người bạn xấu, nhưng bạn ở lãnh vực rộng lớn, tầm cỡ “đất nước” như “người bạn đồng minh” mà chơi xấu thì nguy hại cho cả dân tộc, đất nước.
Nhìn lại lịch sử, nhìn lại bi thảm của cuộc chiến xảy ra trên đất nước rồi nhìn lại những diễn tiến xảy ra, phơi bày sự thật của quá khứ giữa bạn “đồng minh” cùng kẻ thù đã mập mờ, lấp lửng với nhau, thật đau lòng và căm phẫn!
Trong và ngoài cuộc chiến Việt Nam đã để lại không biết bao nhiêu bài học đau thương về bạn - thù nhất là là hình ảnh “người bạn đồng minh” đã một thời vào sinh ra tử thế nhưng lại thay lòng đổi dạ để làm cho cả một dân tộc điêu đứng, tang thương!.
Kẻ chiến bại vào vòng lao lý, gia đình tan nát và tìm vùng đất hồi sinh nơi hải ngoại; trong khi đó “người bạn đồng minh” vạch lại lộ trình nhằm giao hảo với kẻ thù năm xưa.
Người cựu thù năm xưa Đại Úy Douglas “Pete” Peterson, tháng 9 năm 1966 thi hành phi vụ 67 trên chiếc Phantom F-4B, trúng hỏa tiễn SAM-2, thảm bại bên gốc cây xoài ở Xuân Đoài, Bắc Việt rồi trải qua 6 năm rưỡi trong lao tù ở Hỏa Lò, Hà Nội. Sau ba thập niên kẻ thù hùng hổ áp tải “tên giặc lái”, thời thế thay đổi kẻ thù khúm núm đón tiếp kẻ thù năm xưa, vẫn hình ảnh Pete Peterson. Sự nhố nhăng, kịch cỡm, tráo trở trong lá bài chính trị, vừa hô hào chống đối, vừa khúm núm tiếp rước, thể hiện bản chất con người Cộng Sản luôn luôn tay hình đổi dạng!.
Hình ảnh “giặc lái P. Peterson” như hàng trăm hình ảnh “giặc lái” khác của “đế quốc thâm thù” bỗng trở thành những người bạn vĩ đại, được đón tiếp long trọng còn hơn lãnh tụ lụ khụ trong hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa, nghĩ cho cùng, khác gì trò cười cho thế nhân.
Hỡi ôi! khi rời nhà tù Hỏa Lò, ví von “Khách Sạn Hilton” ở Hà Nội vào tháng 3 năm 1973, chàng P. Peterson thề thốt: “Lạy Chúa, con thề sẽ không bao giò trở lại chốn nầy nữa!”. Thế nhưng, sau 31 năm xa cách lời thề, tháng 5/1997 Pete Peterson đến Hà Nội được báo chí gọi đùa “phi vụ 68”. Chàng tuyên bố: “Xây dựng chiếc cầu qua dòng sông của khổ đau” làm bàn dân thiên hạ liên tưởng đến hình ảnh “Cầu Sông Kwai”!.
Chiếc cầu thời kỳ Nhật Hoàng Hirohito vào đầu thập niên 1940 thực hiện cho tuyến đường sắt nối liền từ Mã Lai qua Thái Lan và vùng núi non hiểm trở Thanbyuzayat ở Miến Điện. Chiếc cầu bắt qua dòng sông Mae Khlong với cái giá máu xương trên nửa triệu người tù binh và dân chúng bỏ thây nơi núi rừng ám khí. Con số đó tương đương với oan hồn của người Việt đi tìm tự do bị vùi thây trên biển cả, trên núi rừng biên giới!
Sự đời muôn vàn mỉa mai và buồn cười!. Đổi bạn ra thù và chọn thù bầu bạn chỉ là hành vi và thái độ bất chính, tà đạo, dù có thành công cũng chỉ được giai đoạn, cuối cùng cũng bị đào thải và bị nguyền rủa. Khổng Tử cho rằng có ba loại bằng hữu có ích: hữu dụng, trực hữu dụng, hữu đa văn. Và, có 3 hạng bằng hữu vô tích sự: hữu biền tịch, hữu thiện nhu, hữu biền nịnh. Nhà thơ ngụ ngôn Pháp La Fontaine lưu ý về sự tráo trở của con người khi trở thành kẻ thù: con rắn độc.
Về chuyện Johm McCain… nhân vật từ chiến trường, tù binh chiến tranh và trong chính giới Mỹ được bàn tán nhiều vì giữ sự khách quan nên trích:
Theo VOA: “Ngày 26/10/1967, tại hồ Trúc Bạch, quân và dân Hà Nội bắt sống phi công John Sydney McCain, thiếu tá không quân thuộc lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ đã lái chiếc máy bay A4 bị bắn rơi tại nhà máy điện Yên Phụ”, ông nhảy dù xuống hồ Trúc Bạch. “Ông McCain bị giam giữ trong nhà tù của Việt Nam trong 5 năm cho đến khi được trao trả theo Hiệp Định Paris năm 1973… Sau khi chiến tranh kết thúc, Mỹ cấm vận Việt Nam trong nhiều năm. Ông McCain đã trở thành một thượng nghị sĩ vào năm 1987 và có nhiều hoạt động ủng hộ việc bình thường hóa quan hệ Việt-Mỹ vào năm 1995 và sau đó là thúc đẩy mối quan hệ này…. Bản thân ông đã nhiều lần quay lại thăm Việt Nam, bao gồm cả ghé thăm tấm phù điêu về chính ông”.
Theo Wikipedia (dựa vào hồi ký của McCain): “Chiếc phi cơ A-4E của ông bị một hỏa tiễn bắn trúng trên bầu trời Hà Nội… McCain bị gãy cả hai tay và một chân khi phóng ra khỏi chiếc phi cơ, và gần như bị chết đuối khi nhảy dù xuống Hồ Trúc Bạch…
Mặc dù McCain bị thương trầm trọng, ông cáo buộc những người bắt ông đã từ chối điều trị các vết thương cho ông, đánh ông và tra khảo ông để lấy thông tin; ông được chăm sóc sức khỏe chỉ khi người Việt khám phá ra rằng cha ông là một vị tướng cao cấp (Ghi chú thêm: Ông nội ông là John S. McCain Sr., Đô Đốc từng là Tư Lệnh Hải Quân Mỹ ở Thái Bình Dương. Lúc đó, cha ông là John S. McCain Jr., Tư Lệnh Hải Quân Đệ Thất Hạm Đội). Câu nói dân gian của ta “Đánh chó phải kiêng chủ nhà” vì vậy “McCain trải qua sáu tuần lễ trong bệnh viện, ông nói rằng mình đã nhận được những chăm sóc y tế rất tốt. Vào lúc đó ông mất 50 lb (23 kg) và tóc bắt đầu bạc, McCain từ nhà tù Hỏa Lò đưa đến một trại giam khác nằm ở ngoại ô Hà Nội vào tháng 12 năm 1967.
Tháng 8 năm 1968, McCain cáo buộc rằng một chương trình tra tấn khắc nghiệt bắt đầu được thực hiện lên người ông. Ông nói rằng mình bị buộc bằng dây thừng và bị đánh đập cứ hai giờ một lần trong lúc ông đang bị bệnh kiết lỵ. Bị nhiều vết thương hơn đã khiến cho ông bắt đầu tìm cách tự vẫn nhưng được những người canh giữ ông ngăn chặn. Sau bốn ngày, McCain ký vào ‘giấy tự thú’ tuyên truyền chống Mỹ... McCain nói rằng những tù binh Mỹ khác cũng bị tra tấn và đối xử tệ để lấy ‘lời thú nhận tội’ và những lời tuyên bố mang tính tuyên truyền. Trong số đó có những người phải chịu đựng sự đối xử tệ hại hơn và dài hơn; gần như tất cả tù binh cuối cùng cũng phải khuất phục một phần nào đó trước những người bắt họ. McCain kể rằng ông bị đánh ba lần mỗi tuần vì ông tiếp tục từ chối ký thêm các bản tự thú khác.
Tính chung, McCain làm tù binh tại Hà Nội trong 5 năm rưỡi. Ông được thả vào ngày 14 tháng 3 năm 1973. Các vết thương của ông vào thời chiến vẫn còn khiến cho ông vĩnh viễn không thể đưa hai tay qua khỏi đầu” (Wikipedia).
Bài viết của nhà văn Huy Phương: John McCain, ‘cái quan luận định!’ đăng trên nhật báo Người Việt:
“Người xưa có nói “cái quan luận định” (đậy nắp hòm rồi mới có thể khen chê hay dở!). Trường hợp Thượng Nghị Sĩ John McCain, không những nắp hòm đã đậy mà quan tài cũng đã đem chôn, nói vài lời về ông cũng là việc phải…
Thượng Nghị Sĩ John McCain đã là một trong những chính khách vận động với chính phủ Hoa Kỳ trong việc điều đình lâu dài và kiên trì với chính phủ CSVN để cho chúng tôi, hơn 350,000 cựu tù nhân “cải tạo” và gia đình được đến định cư tại Hoa Kỳ. Ơn ấy sánh bằng trời biển! Nhờ sự can thiệp của Thượng Nghị Sĩ John McCain, qua Tu Chính Án mang tên ông, vào năm 1998, Quốc Hội Hoa Kỳ sửa lại tu chính án này để cho phép những người con của cựu tù nhân “cải tạo,” bị từ chối trước ngày 1 tháng Tư, 1995 vì lý do trên 21 tuổi, nay được nộp đơn xin cứu xét định cư tại Hoa-Kỳ…
Sự góp phần vận động cho chương trình tái định cư những cựu tù đã bị giam cầm trong “trại cải tạo” của ông đã làm thay đổi tương lai của cả một thế hệ con cháu của những người cựu quân nhân VNCH. Ngoài ra ông còn có công trong việc thông qua Luật “The Amerasian Homecoming Act,” cho phép từ 23 đến 25 ngàn con lai và thân nhân định cư tại Hoa Kỳ…
Nhắc lại tiểu sử, sự nghiệp của John McCain, người ta đã ca ngợi ông như một anh hùng của nước Mỹ và là một “đại ân nhân” của CSVN. Mỹ và Bắc Việt đã từng là kẻ thù của nhau, có thể nào một anh hùng của đất nước này lại là một ân nhân của đất nước kia không? Ông không những có công với người Việt hải ngoại đã vì chống đối chế độ trong nước mà khăn gói ra đi, ông cũng là một trong những người vận động bỏ cấm vận và mở lại bang giao Việt Mỹ, để người Việt gọi ông là “đại ân nhân,” chúng ta đã thấy hình ảnh nhiều người dân ôm ảnh ông vào lòng mà sụt sùi sau khi ông mất.
Có điều khá khó hiểu là vì sao đối với một “đại ân nhân” như John McCain, CSVN không xây cho ông một tượng đài mươi tỷ, không hoành tráng như tượng “bác Hồ” thì cũng tạm như tượng ông Fidel Castro. Cái tượng tạc ông, nói cho đúng một bức phù điêu nhếch nhác xây bên bờ hồ Trúc Bạch, mô tả cảnh ông quỳ gối, dang tay đầu hàng…
Đây rõ ràng không phải là một bức tượng “vinh danh” hay “tri ân” mà là một bức tượng “sỉ nhục” tả ông trong tư thế quỳ gối, hai tay đưa thẳng lên cao khỏi đầu. Điều làm tôi ngạc nhiên là Thượng Nghị Sĩ John McCain đã tỏ ra “tự hào” khi được Việt Nam dựng “bia” tại hồ Trúc Bạch, nơi máy bay của ông bị bắn rơi. Một bức ảnh chụp lại bức phù điêu này được treo trong phòng làm việc của ông, và ông đã có lần nói với ông Đại Sứ CSVN Nguyễn Quốc Cường là: “Đây là bức ảnh tôi quý nhất!”…
Người ta cho rằng tư thế quỳ gối đầu hàng của một chiến binh là một sự sỉ nhục ở tầm quốc gia. Câu chuyện này đã làm tôi nhớ lại việc Iran công bố đoạn video ghi lại cảnh 10 thủy thủ Mỹ quỳ gối khi bị bắt giữ ở hải phận Iran, dưới thời Obama. Nhưng ông John McCain chỉ bị bắn rơi và cũng chẳng bao giờ giơ hai tay lên khỏi đầu và quỳ gối với tư thế ươn hèn như vậy…
Nếu nay mai, CSVN lấy tên ông John McCain, “đại ân nhân” để đặt cho một con đường ở Hà Nội, thì trước hết phải phá bỏ bức phù điêu “quỳ gối đầu hàng” của ông bên hồ Trúc Bạch, để ít ra cho thiên hạ thấy chế độ này còn một chút liêm sỉ!” (Huy Phương)
Theo nguồn tin trên internet, phù điêu “Quân dân thủ đô bắn rơi máy bay Mỹ” và phù điêu “Bắt sống phi công Mỹ John McCain” cùng thời điểm, lúc đó phù điêu thực hiện bằng xi-măng chỉ trơ trọi... Sau nầy Thượng Nghị Sĩ McCain có công tái lập bang giao Mỹ-Việt, vì vậy trước phù điêu mới được trồng bồn hoa, trở thành địa điểm thăm viếng. Khi bước vào chính trường Mỹ, ông McCain đã từng ghé thăm nơi nầy và cho biết thích phù điêu nầy vì nói lên quá khứ từng là người lính chiến đấu, bay vào lòng đất địch và tù binh chiến tranh như những đồng đội khác… Giữa thù và bạn thay đổi theo thời gian. Vì vậy gọi là “vinh danh” hay “sỉ nhục” (?) tùy theo quan điểm mỗi người.
Bên cạnh phù điêu ghi hàng chữ in: “Ngày 26-10-1967 tại hồ Trúc Bạch quân và dân thủ đô Hà Nội bắt sống tên John Sney Ma Can (?) thiếu tá không quân Mỹ lái chiếc máy bay A4 bị bắn rơi tại nhà máy điện Yên Phủ đây là một trong 10 chiếc máy bay bị bắn rơi cùng ngày”. Sau nầy thay đổi cách gọi “Phi công John Sidney Mccain thiếu tá không quân thuộc lực lượng Hải Quân Hoa Kỳ”.
Ngẫm lại câu nói của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Nửa thế kỷ sau khi Putin xua quân Nga xâm lăng Ukraine. Tổng Thống, Quân, Dân Ukraine quyết tâm chống trả với kẻ thù Nga tàn bạo sát hại và phá nát đất nước Ukraine. Trong khi đó nhiều “bạn” đồng minh hết lòng hỗ trợ nhưng cũng có “bạn” lúc thế nầy, lúc thế kia làm áp lực cho TT Zelensky không biết đâu mà lường!...
Than ôi! người đời muôn mặt, giữa chính và tà, giữa bạn và thù... nếu không bình tâm suy ngẫm, không nhận chân sự thật, trắng đen... làm tổn thương cho nhau, tạo nên bao vết thương lòng!.
Little Saigon, June 2025
Vương Trùng Dương