Hôm nay,  

Nouméa: đất lạ và nét quen

3/8/201700:03:00(View: 8258)

Nouméa: đất lạ và nét quen

 

Bùi Văn Phú

 

Cuối năm ngoái vợ chồng tôi đi Úc dự đám cưới cô cháu, cùng thăm bạn. Chuyến đi, bay thẳng từ San Francisco đến Sydney, dài 15 giờ đồng hồ. Trên đường về, ghé chơi vài đảo ở nam Thái Bình Dương cho biết đời sống ở đó và cũng để không phải ngồi trên chuyến bay quá dài.


Ở phi trường Sydney, khi làm thủ tục gửi hành lý và lấy ghế trên máy bay của hãng Aircalin để đi Nouvelle Calédonie, cô tiếp viên không rõ việc nhập cảnh vào đảo này cho người mang hộ chiếu Mỹ nên phải hỏi cấp trên. Tôi đã biết trước là không cần visa, nhưng cô ấy nói cần xem lại cho chắc. Có lẽ vì ít người mang hộ chiếu Mỹ đến đảo nên cô cần hỏi lại.


Sau khi xác nhận không cần visa, cô hỏi chúng tôi dự định ở đó bao lâu. Tôi trả lời 4 ngày. Cô nói đây là đảo đẹp, nhưng ở lâu sẽ chán, vài ngày là vừa đủ. Tôi nghĩ đời sống hải đảo ở đâu chắc cũng thế, như Hawaii nổi tiếng là “hải đảo thần tiên” của Mỹ, nhưng ở chừng một tuần là thấy chẳng còn gì vui chơi ngoài biển và cát.


Vào phòng đợi lên máy bay, hầu hết hơn một trăm hành khách là da trắng, vài người da đen. Mọi người nói tiếng Pháp. Có một anh đang nói chuyện qua điện thoại bằng tiếng Việt.


Sau gần ba giờ bay, phi cơ hạ cao độ. Nắng chiều chiếu lên đảo với núi xanh mầu cây lá giữa biển nước cũng trong xanh.


Phi trường Tontouta rất nhỏ, kiến trúc bằng kính và sắt i-nốc, trông còn mới và rất sạch. Không có chuyến bay khác đến nên lấy hành lý và qua kiểm soát di trú rất nhanh.


Nhiều người cùng lên xe buýt để vào Nouméa, thủ đô của Nouvelle Calédonie. Vừa ra khỏi phi trường, tôi thấy những cây phượng còn đỏ rực vì đang là mùa hè ở nam bán cầu.


Vào đến thành phố mất hơn một giờ đồng hồ, xe ghé qua vài khách sạn ở trung tâm, trước khi chạy về khu Anse Vata, nơi có Hilton và nhiều khách sạn khác dọc bờ biển.


Đêm về khu này nhộn nhịp người qua lại. Đi tìm nơi ăn tối, gặp quán Hanoi Plage nên chúng tôi ghé ăn thử.


Tôi gọi miến gà. Nhà tôi ăn phở gà. Thêm gỏi gà và một lon nước ngọt. Phở và miến có chả lụa. Gỏi bắp cải có húng bạc hà và nước mắm. Hỏi thăm chủ quán là người Việt và biết bà làm chủ nhiều nhà hàng. Khi biết chúng tôi từ California đến, bà nói thức ăn ở đây không thể ngon bằng bên Mỹ được. Nhà tôi nói phở có chả là lạ. Bà giải thích đúng ra là bò viên, nhưng tối nay hết nên thay bằng chả.


Bữa ăn tối đơn giản, phở và miến tô nhỏ, mỗi tô giá 1550 XPF, gỏi gà 1920, lon nước ngọt 650; tổng cộng 5670 XPF, gồm cả 5% thuế T.S.S. (1 USD = 105 XPF tiền địa phương), tính ra là 54 đô.


Buổi sáng đầu tiên ở Nouméa, từ tầng cao của khách sạn nhìn ra xa là biển, bên dưới có thông xanh và những cây phượng đang rộ nở hoa làm tôi nhớ Nha Trang trong một lần ghé thăm. Trời nắng nóng và có gió thoảng. Cuối tháng 12 mà như mùa hè ở quê cũ.


Là thuộc địa Pháp nên ăn sáng có croissant, paté chaud, cà-phê và sô-cô-la nóng. Như ở Sài Gòn ngày xưa. Mỗi thứ chừng 3 đô.


Ăn sáng xong chúng tôi xuống trung tâm thành phố. Hỏi lễ tân tìm cách đi xe buýt, cô nói đang là “big holiday” xe không chạy thường xuyên. Hôm đó là một ngày thường trong tuần nên tôi tò mò muốn biết dịp lễ gì mà là “big holiday”, cô nói là “summer”. Thì ra thế. Tiếng Anh ở đây và ở Mỹ có những khác biệt. Tôi nhớ lại bên Úc cũng gọi kỳ nghỉ hè là “big holiday”, không nghe dùng từ “vacation”.


Ra trạm xe buýt gặp vài người dân địa phương cùng cặp vợ chồng trẻ người Nhật đang đứng chờ. Có lẽ du khách Nhật đến đây nhiều, vì ở phi trường các bảng hướng dẫn có ba thứ tiếng là Pháp, Anh và Nhật. Các tài liệu du lịch cũng thế.


Vé một chuyến là 210 XPF. Xe chạy dọc theo bờ biển, có khi leo đồi thấp. Bên đường thỉnh thoảng có phượng đỏ và ít phượng vàng. Đa số nhà cửa không sang đẹp nhưng cũng không thấy những khu tồi tàn. Hệ thống chuyên chở công cộng ở đây rất thuận lợi cho việc di chuyển. Với gần chục tuyến đường đến được nhiều nơi trong thành phố và ngoại thành.


Chừng 30 phút tài xế báo đã đến trung tâm thành phố. Vừa xuống xe, thấy một cửa tiệm với bảng hiệu “Mai Linh”, bán tạp hóa và thức ăn.


Đi vài chục bước thì thật ngạc nhiên khi thấy một tượng đài ba người, với một phụ nữ đội khăn mỏ quạ là hình ảnh quen thuộc của đàn bà miền bắc Việt Nam.


Bức tượng mang tên Chân Đăng được dựng vào ngày 17/10/2013. Dưới chân tượng có khóm tre và hàng chữ bằng tiếng Việt và tiếng Pháp: “Ghi nhớ công ơn những người Chân Đăng Việt Nam đã góp phần phát triển nền kinh tế tại Nouvelle Calédonie và Nouvelle-Hébrides từ cuối thế kỷ mười chín.”


Thấy một phụ nữ gốc Á đang dắt chó đi dạo, tôi hỏi bằng tiếng mẹ đẻ: “Xin lỗi. Chị là người Việt?” và nghe đáp lại: “Dạ.”


Hỏi Chân Đăng nghĩa là gì thì chị cũng không biết. Chị ấy gốc Hà Nội, qua đây định cư đã 25 năm. Mẹ chị trước sống ở đây, đã hồi hương vào những năm 1960 và sau này được tái định cư. Chị đã có dịp qua California chơi, ghé Los Angeles, San Francisco. Chị nói ở Nouméa người Việt đông hơn người Hoa.


Gần tượng đài có một tiệm ăn đặt bảng bên lề đường với các món ăn châu Á trong đó có “nem”.


Hình ảnh này bỗng làm tôi nhớ đến thành phố Abidjan của Côte d’Ivoire ở châu Phi, nơi đầu tiên tôi thấy nem bán bên lề đường vào đầu thập niên 1980, mà theo kể lại thì có hai giả thuyết về hành trình đem nem đến châu Phi. Có thể món ăn này đã theo chân lính viễn chinh Pháp đem về vào những năm 1950, hoặc do một người gốc Việt qua đây định cư sau năm 1975 đem đến.


Nem trên đảo Nouvelle Calédonie không biết có từ bao giờ, nhưng chắc là do người Bắc Kỳ đem qua, vì nem là cách người bắc gọi chả giò. Mà người bắc đã có mặt trên hải đảo này cả thế kỷ trước, khi Pháp đưa người Tonkinoise qua đây làm phu mỏ.


Chúng tôi vào quán ăn thử. Sáu cái nem rán với chút rau sà-lát và nước mắm, giá 890 XPF. Không ngon vì nhân bên trong toàn củ cải hay củ sắn, chỉ chút thịt heo.


Đây là khu Á đông – Quartier Asiatique. Chung quanh thấy nhiều cửa hàng tạp hóa và thức ăn có bán nem và phở. Một cửa tiệm còn bày hàng chữ “Chúc Mừng Năm Mới” trong tủ kính phía trước.


Khát nước. Chúng tôi vào tiệm tạp hóa tìm mua nước. Thấy người Á đông tính tiền, tôi hỏi tiếng Việt là đúng ngay gặp được người mình. Anh lại nói lúc đầu tưởng tôi là người Nhật. Chai nước giá 110 XPF, anh tính bớt còn 105 thôi.


Place des Cocotiers là quảng trường chính của thành phố, không rộng lắm, là nơi tập trung sinh hoạt dịp lễ lớn. Dịp Giáng sinh buổi tối ở đây có hòa nhạc và trình diễn đèn mầu.


Dưới bóng dừa, bóng phượng có người ngồi chơi, vui đùa. Mấy đứa trẻ nô đùa đá bóng. Nơi đây có wifi miễn phí nhưng ít người dùng, có thể vì iPhone chưa được dùng nhiều ở đây.


Chúng tôi ăn trưa tại quán ở giữa quảng trường. Bánh mì jambon với phô-mai. Giòn và rất ngon.


Nhìn ra công viên, thấy một người da rất đen ăn bánh mì. Ông mở chai coca-cola, đổ xuống đất một chút rồi mới đưa lên miệng uống. Tôi đoán ông đến từ miền tây châu Phi vì đó là phong tục ở Togo, nơi tôi đã có một thời sống qua và hiểu được đó là cách tỏ lòng nhớ đến tổ tiên.


Từ quán ăn nhìn qua bên kia đường là một tòa nhà có hàng chữ BUI DUYET thật to.

Hỏi chuyện những người quanh đây, được biết ông Duyệt gốc Sài Gòn, có cơ sở buôn bán nhiều mặt hàng rất thành công. Đi quanh Nouméa tôi thấy hai bin-đinh mang tên ông.


Lịch sử của người Việt ở Nouvelle Calédonie bắt đầu vào những năm cuối thế kỷ 19, khi chính phủ Pháp đưa người Việt, gồm tù Côn Đảo và nhiều người Tonkinoise (Bắc Kỳ), qua đây làm phu mỏ. Ở tỉnh bắc của Nouvelle Calédonie như Thio, Tiébaghi ngày nay còn di tích và dấu vết của người Việt trong các viện bảo tàng.


Tác giả Jean VanMai, một người con của Chân Đăng nhưng không hồi hương vào năm 1960, trong tác phẩm Fils de Chan Dang ông đã ghi lại lịch sử của người Việt trên đảo và những khó khăn, tranh đấu của phu mỏ Việt cũng như những yếu tố tác động đến việc chính phủ Pháp đưa họ hồi hương.


Những người trở về đã chịu nhiều áp lực vì biến động và hoàn cảnh chính trị thế giới vào giai đoạn đó. Cũng có luận điểm cho rằng cộng sản đã ảnh hưởng nhiều đến công nhân phu mỏ người Việt ở đây nên họ đã đòi hồi hương.


Nouvelle Calédonie là nơi Pháp giam giữ tù nhân vào cuối thế kỷ 19, với nhiều tù chính trị từ Pháp và từ thuộc địa như Algerie, Đông Dương.


Từ cuối thể kỷ 19 Pháp đã đưa người Việt qua đảo. Chuyến tàu đầu tiên có 700 người, đa số là tù Côn Đảo.


Từ năm 1891 đến 1939 có tất cả 21.000 người Việt sang đây làm phu mỏ, theo hợp đồng 5 năm.


Đến đầu thập niên 1960 có chính sách đưa phu mỏ Việt trở lại Việt Nam, hầu hết là trở lại miền bắc, vì khi được đưa qua đây làm phu, họ là dân xứ Bắc Kỳ (Tonkin).


Khi ở Úc, biết tôi sẽ đi chơi Tân Thế Giới, một bác gốc Quảng Ninh đã kể rằng một số người khi hồi hương về Bắc có đem theo của, rồi dần cũng bị nhà nước lấy hết, kể cả những chiếc đồng hồ đeo tay.


Đến giữa thập niên 1980, Pháp và Việt Nam có thỏa thuận cho tái định cư ở Nouvelle Calédonie những ai có thân nhân còn ở đây. Nhiều người hồi hương trước đây, nay có cơ hội trở lại đảo để sinh sống và được nhập tịch Pháp.


Những ngày đi chơi Nouméa tôi đã thấy các cửa hàng tạp hóa, thức ăn với tên Việt như Mai Linh, Man Duong, Hanoi Plage, Along Beach, Như Ý và gặp được người Việt gốc Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình, Bắc Ninh, Tuyên Quang.


Chợ chính của thành phố ở gần bến cảng cũng có nhiều sạp hàng của người Việt bán rau muống, mít, mãng cầu dai.


Trung tâm du khách gần tòa thị chính có quảng cáo hướng dẫn du lịch của anh Francois Trần.


Một buổi tối ở khách sạn, xem cuốn niên giám điện thoại thấy ở Nouméa họ Nguyễn có đến hơn trăm danh mục, chiếm hết gần một trang. Họ Trần 50, Phạm 30, Bùi 22, Hoàng 20, Ngô 4. Những khu vực quanh thủ đô như Dumbéa cũng có vài chục họ Việt. Xem kỹ từng tên, đa số có tên Pháp, nhưng vẫn còn những tên thuần Việt như Nguyen Ngoc Duc, Nguyen Minh Hoang, Hoang Thu Anh, Hoang Trong Thanh v.v…


Vì là thuộc địa nên ở đây có nếp sống Pháp. Nhiều nơi bán bánh mì jambon và các loại bánh ngọt. Một chiều ở bến cảng nghe ca sĩ Patricia Ségui hát nhạc Pháp rất dễ thương.


Một ngày có du thuyền cập bến, du khách tràn ngập khu này tìm mua đồ kỉ niệm là những chiếc áo mầu sặc sỡ hay đồ thủ công là những chiếc xe xích lô, xe vespa bằng gỗ mà tôi ngờ đó là hàng sản xuất từ Việt Nam. Nét văn hóa châu Á còn được biểu hiện qua những bộ tem thư mười hai con giáp do bưu điện phát hành vào dịp tết âm lịch.


Gần bến cảng có siêu thị Casino như siêu thị ở Mỹ và trong đó có bán thức ăn Việt như nem làm sẵn, phở gói, bánh tráng, nước mắm, mắm nêm.


Một buổi chiều chúng tôi ghé mua thịt bò, khoai, đậu và bơ, bánh mì về làm bíp-tếch ăn tối. Khi đến quầy rượu, định mua một chai vang thì nơi đây rào lại. Hỏi ra mới biết sau 12 giờ trưa không cho bán rượu, muốn mua phải chờ sáng hôm sau.


Về khách sạn, hỏi lễ tân và anh chỉ cho một nơi được phép bán rượu trong giờ cấm, cách khách sạn chừng 30 phút đi bộ. Theo chỉ đường, chúng tôi đến đó.


Nhưng mới chỉ vài phút sau khi rời khách sạn, thấy bên đường có một cửa hàng mang tên Việt, ghé vào xem có gì lạ. Thấy chỗ để bia rượu có vải che, nhưng còn một kệ với rượu vang để mở. Tôi đang chọn rượu thì được chủ cửa hàng giải thích là giờ này không được bán rượu.


Khi biết chúng tôi là người Việt, bác nói sẽ bán cho, nhưng phải giấu vào giỏ đeo. Tôi mua một chai, cái mở nút, một lon bia Number 1, là bia nội địa, tất cả chừng 15 đô.


Chị chủ tiệm, người Tuyên Quang, theo bố mẹ qua đây định cư từ năm 1992, còn chồng gốc Nam Định. Nghe kể vào những năm 1960 Pháp đưa người hồi hương mà con cháu không muốn về cũng bị bắt buộc phải về.


Đến cuối thập niên 1980 chính phủ Pháp lại có chính sách cho trở lại Nouvelle Calédonie định cư nên gia đình chị được người bác bảo trợ qua đây. Chị kể, lúc trước còn dễ, cho con cái đã có gia đình cũng được đi, bây giờ chỉ con dưới 18 tuổi mới được đi theo.


Người Việt qua đây chịu khó làm ăn, mở cửa hàng buôn bán nên đời sống cũng khá. Anh chị trước đây có mấy cửa tiệm, nay đã sang lại chỉ còn giữ tiệm này. Một người con gái của anh chị đang học thạc sĩ luật bên Pháp.


Hỏi thăm đời sống, anh cho biết lương giáo viên ở đây từ 5 đến 7 nghìn đôla một tháng, được coi là cao. Mua nhà có thể trả góp, mỗi tháng bằng 30% lương, và phải chứng minh được thu nhập vì cơ quan chức năng sợ có việc rửa tiển của những thành phần làm ăn bất chính.


Người Việt ở Nouméa có đến vài nghìn, trong số chừng 100.000 cư dân. Ở đây có nhà thờ với cha người Việt từ địa phương. Cũng có chùa nhưng nhà sư từ trong nước qua lo giúp, nay đã về lại nên giờ đang xin một thầy khác qua.


Sinh hoạt tập trung tại Hội Ái hữu Việt Nam và chính phủ Việt Nam mới cử một người làm tổng lãnh sự danh dự ở Nouméa. Người Việt ở đây có liên hệ thân thiết nhất là với hội đồng hương Tân Đảo ở Nam Định.


Trước khi chia tay chúng tôi cám ơn anh chị đã cho cơ hội được biết về người Việt ở hải đảo này và được có rượu để uống tối nay.


Những ngày rong chơi ở Nouméa chúng tôi vào thăm Bảo tàng Nouvelle Calédonie để thấy nét văn hóa truyền thống của dân bản địa Kanak trải qua nhiều thế kỷ. Từ cách đan rổ rá, rọ bắt cá, cung tên bằng tre, nhà lá vách đất, cho đến cách làm thuyền buồm để vượt đại dương, đến những ảnh tượng mỹ thuật bằng gỗ, kim loại.


Nouvelle Calédonie trong những năm Thế chiến Thứ Hai được Pháp cho Hoa Kỳ dùng làm căn cứ quân sự. Anse Vata đã từng là khu bệnh viện chữa trị cho binh lính bị thương ở mặt trận Thái Bình Dương.


Lính Mỹ đã đổ bộ lên đây vào ngày 12 tháng 3/1942 và lúc cao điểm đã có 130.000 lính Mỹ đồn trú trên đảo. Trong thời gian chiến tranh, hơn một triệu lính Mỹ đã dừng chân tại đây.


Ngày nay ở Nouméa có Đài Tưởng niệm người Mỹ (American Memorial), có Bảo tàng Thế chiến Thứ Hai trên đường Paul Doumer, trong đó ghi lại hoạt động của Hoa Kỳ và đồng minh khi tham chiến, cho đến năm 1946 sau khi Nhật đã đầu hàng.


Nouvelle Calédonie chính thức là thuộc địa của Pháp từ năm 1853. Rộng 18.000 kilô-mét vuông, với 270.000 dân, đến nay đảo này tuy được tự trị nhưng vẫn nằm trong sự kiểm soát của Pháp.


Tuy đã có những phong trào đòi độc lập, nhưng qua nhiều lần trưng cầu dân ý, đa số cư dân Nouvelle Calédonie vẫn không muốn tách rời khỏi nước Pháp.


[nguồn: VOA]

blank

H01: Cuối tháng 12 ở Nouméa có hoa phượng rực nở (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H02: Trạm xe buýt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H03: Tượng Chân Đăng (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H04: Cửa hàng bán đồ điện tử của người Việt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H05: Tem thư do bưu điện Nouvelle Calédonie phát hành dịp Tết Âm lịch (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H06: Nem và phở là những món ăn Việt được nhiều người biết đến ở Nouméa (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H07: Bảo tàng Thế chiến Thứ Hai  (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H08: Mỹ thuật của người bản xứ Kanak trong Bảo tàng Nouvelle Calédonie  (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H09: Tiệm tạp hóa và thức ăn của người Việt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 


Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.