Hôm nay,  

Nouméa: đất lạ và nét quen

08/03/201700:03:00(Xem: 8185)

Nouméa: đất lạ và nét quen

 

Bùi Văn Phú

 

Cuối năm ngoái vợ chồng tôi đi Úc dự đám cưới cô cháu, cùng thăm bạn. Chuyến đi, bay thẳng từ San Francisco đến Sydney, dài 15 giờ đồng hồ. Trên đường về, ghé chơi vài đảo ở nam Thái Bình Dương cho biết đời sống ở đó và cũng để không phải ngồi trên chuyến bay quá dài.


Ở phi trường Sydney, khi làm thủ tục gửi hành lý và lấy ghế trên máy bay của hãng Aircalin để đi Nouvelle Calédonie, cô tiếp viên không rõ việc nhập cảnh vào đảo này cho người mang hộ chiếu Mỹ nên phải hỏi cấp trên. Tôi đã biết trước là không cần visa, nhưng cô ấy nói cần xem lại cho chắc. Có lẽ vì ít người mang hộ chiếu Mỹ đến đảo nên cô cần hỏi lại.


Sau khi xác nhận không cần visa, cô hỏi chúng tôi dự định ở đó bao lâu. Tôi trả lời 4 ngày. Cô nói đây là đảo đẹp, nhưng ở lâu sẽ chán, vài ngày là vừa đủ. Tôi nghĩ đời sống hải đảo ở đâu chắc cũng thế, như Hawaii nổi tiếng là “hải đảo thần tiên” của Mỹ, nhưng ở chừng một tuần là thấy chẳng còn gì vui chơi ngoài biển và cát.


Vào phòng đợi lên máy bay, hầu hết hơn một trăm hành khách là da trắng, vài người da đen. Mọi người nói tiếng Pháp. Có một anh đang nói chuyện qua điện thoại bằng tiếng Việt.


Sau gần ba giờ bay, phi cơ hạ cao độ. Nắng chiều chiếu lên đảo với núi xanh mầu cây lá giữa biển nước cũng trong xanh.


Phi trường Tontouta rất nhỏ, kiến trúc bằng kính và sắt i-nốc, trông còn mới và rất sạch. Không có chuyến bay khác đến nên lấy hành lý và qua kiểm soát di trú rất nhanh.


Nhiều người cùng lên xe buýt để vào Nouméa, thủ đô của Nouvelle Calédonie. Vừa ra khỏi phi trường, tôi thấy những cây phượng còn đỏ rực vì đang là mùa hè ở nam bán cầu.


Vào đến thành phố mất hơn một giờ đồng hồ, xe ghé qua vài khách sạn ở trung tâm, trước khi chạy về khu Anse Vata, nơi có Hilton và nhiều khách sạn khác dọc bờ biển.


Đêm về khu này nhộn nhịp người qua lại. Đi tìm nơi ăn tối, gặp quán Hanoi Plage nên chúng tôi ghé ăn thử.


Tôi gọi miến gà. Nhà tôi ăn phở gà. Thêm gỏi gà và một lon nước ngọt. Phở và miến có chả lụa. Gỏi bắp cải có húng bạc hà và nước mắm. Hỏi thăm chủ quán là người Việt và biết bà làm chủ nhiều nhà hàng. Khi biết chúng tôi từ California đến, bà nói thức ăn ở đây không thể ngon bằng bên Mỹ được. Nhà tôi nói phở có chả là lạ. Bà giải thích đúng ra là bò viên, nhưng tối nay hết nên thay bằng chả.


Bữa ăn tối đơn giản, phở và miến tô nhỏ, mỗi tô giá 1550 XPF, gỏi gà 1920, lon nước ngọt 650; tổng cộng 5670 XPF, gồm cả 5% thuế T.S.S. (1 USD = 105 XPF tiền địa phương), tính ra là 54 đô.


Buổi sáng đầu tiên ở Nouméa, từ tầng cao của khách sạn nhìn ra xa là biển, bên dưới có thông xanh và những cây phượng đang rộ nở hoa làm tôi nhớ Nha Trang trong một lần ghé thăm. Trời nắng nóng và có gió thoảng. Cuối tháng 12 mà như mùa hè ở quê cũ.


Là thuộc địa Pháp nên ăn sáng có croissant, paté chaud, cà-phê và sô-cô-la nóng. Như ở Sài Gòn ngày xưa. Mỗi thứ chừng 3 đô.


Ăn sáng xong chúng tôi xuống trung tâm thành phố. Hỏi lễ tân tìm cách đi xe buýt, cô nói đang là “big holiday” xe không chạy thường xuyên. Hôm đó là một ngày thường trong tuần nên tôi tò mò muốn biết dịp lễ gì mà là “big holiday”, cô nói là “summer”. Thì ra thế. Tiếng Anh ở đây và ở Mỹ có những khác biệt. Tôi nhớ lại bên Úc cũng gọi kỳ nghỉ hè là “big holiday”, không nghe dùng từ “vacation”.


Ra trạm xe buýt gặp vài người dân địa phương cùng cặp vợ chồng trẻ người Nhật đang đứng chờ. Có lẽ du khách Nhật đến đây nhiều, vì ở phi trường các bảng hướng dẫn có ba thứ tiếng là Pháp, Anh và Nhật. Các tài liệu du lịch cũng thế.


Vé một chuyến là 210 XPF. Xe chạy dọc theo bờ biển, có khi leo đồi thấp. Bên đường thỉnh thoảng có phượng đỏ và ít phượng vàng. Đa số nhà cửa không sang đẹp nhưng cũng không thấy những khu tồi tàn. Hệ thống chuyên chở công cộng ở đây rất thuận lợi cho việc di chuyển. Với gần chục tuyến đường đến được nhiều nơi trong thành phố và ngoại thành.


Chừng 30 phút tài xế báo đã đến trung tâm thành phố. Vừa xuống xe, thấy một cửa tiệm với bảng hiệu “Mai Linh”, bán tạp hóa và thức ăn.


Đi vài chục bước thì thật ngạc nhiên khi thấy một tượng đài ba người, với một phụ nữ đội khăn mỏ quạ là hình ảnh quen thuộc của đàn bà miền bắc Việt Nam.


Bức tượng mang tên Chân Đăng được dựng vào ngày 17/10/2013. Dưới chân tượng có khóm tre và hàng chữ bằng tiếng Việt và tiếng Pháp: “Ghi nhớ công ơn những người Chân Đăng Việt Nam đã góp phần phát triển nền kinh tế tại Nouvelle Calédonie và Nouvelle-Hébrides từ cuối thế kỷ mười chín.”


Thấy một phụ nữ gốc Á đang dắt chó đi dạo, tôi hỏi bằng tiếng mẹ đẻ: “Xin lỗi. Chị là người Việt?” và nghe đáp lại: “Dạ.”


Hỏi Chân Đăng nghĩa là gì thì chị cũng không biết. Chị ấy gốc Hà Nội, qua đây định cư đã 25 năm. Mẹ chị trước sống ở đây, đã hồi hương vào những năm 1960 và sau này được tái định cư. Chị đã có dịp qua California chơi, ghé Los Angeles, San Francisco. Chị nói ở Nouméa người Việt đông hơn người Hoa.


Gần tượng đài có một tiệm ăn đặt bảng bên lề đường với các món ăn châu Á trong đó có “nem”.


Hình ảnh này bỗng làm tôi nhớ đến thành phố Abidjan của Côte d’Ivoire ở châu Phi, nơi đầu tiên tôi thấy nem bán bên lề đường vào đầu thập niên 1980, mà theo kể lại thì có hai giả thuyết về hành trình đem nem đến châu Phi. Có thể món ăn này đã theo chân lính viễn chinh Pháp đem về vào những năm 1950, hoặc do một người gốc Việt qua đây định cư sau năm 1975 đem đến.


Nem trên đảo Nouvelle Calédonie không biết có từ bao giờ, nhưng chắc là do người Bắc Kỳ đem qua, vì nem là cách người bắc gọi chả giò. Mà người bắc đã có mặt trên hải đảo này cả thế kỷ trước, khi Pháp đưa người Tonkinoise qua đây làm phu mỏ.


Chúng tôi vào quán ăn thử. Sáu cái nem rán với chút rau sà-lát và nước mắm, giá 890 XPF. Không ngon vì nhân bên trong toàn củ cải hay củ sắn, chỉ chút thịt heo.


Đây là khu Á đông – Quartier Asiatique. Chung quanh thấy nhiều cửa hàng tạp hóa và thức ăn có bán nem và phở. Một cửa tiệm còn bày hàng chữ “Chúc Mừng Năm Mới” trong tủ kính phía trước.


Khát nước. Chúng tôi vào tiệm tạp hóa tìm mua nước. Thấy người Á đông tính tiền, tôi hỏi tiếng Việt là đúng ngay gặp được người mình. Anh lại nói lúc đầu tưởng tôi là người Nhật. Chai nước giá 110 XPF, anh tính bớt còn 105 thôi.


Place des Cocotiers là quảng trường chính của thành phố, không rộng lắm, là nơi tập trung sinh hoạt dịp lễ lớn. Dịp Giáng sinh buổi tối ở đây có hòa nhạc và trình diễn đèn mầu.


Dưới bóng dừa, bóng phượng có người ngồi chơi, vui đùa. Mấy đứa trẻ nô đùa đá bóng. Nơi đây có wifi miễn phí nhưng ít người dùng, có thể vì iPhone chưa được dùng nhiều ở đây.


Chúng tôi ăn trưa tại quán ở giữa quảng trường. Bánh mì jambon với phô-mai. Giòn và rất ngon.


Nhìn ra công viên, thấy một người da rất đen ăn bánh mì. Ông mở chai coca-cola, đổ xuống đất một chút rồi mới đưa lên miệng uống. Tôi đoán ông đến từ miền tây châu Phi vì đó là phong tục ở Togo, nơi tôi đã có một thời sống qua và hiểu được đó là cách tỏ lòng nhớ đến tổ tiên.


Từ quán ăn nhìn qua bên kia đường là một tòa nhà có hàng chữ BUI DUYET thật to.

Hỏi chuyện những người quanh đây, được biết ông Duyệt gốc Sài Gòn, có cơ sở buôn bán nhiều mặt hàng rất thành công. Đi quanh Nouméa tôi thấy hai bin-đinh mang tên ông.


Lịch sử của người Việt ở Nouvelle Calédonie bắt đầu vào những năm cuối thế kỷ 19, khi chính phủ Pháp đưa người Việt, gồm tù Côn Đảo và nhiều người Tonkinoise (Bắc Kỳ), qua đây làm phu mỏ. Ở tỉnh bắc của Nouvelle Calédonie như Thio, Tiébaghi ngày nay còn di tích và dấu vết của người Việt trong các viện bảo tàng.


Tác giả Jean VanMai, một người con của Chân Đăng nhưng không hồi hương vào năm 1960, trong tác phẩm Fils de Chan Dang ông đã ghi lại lịch sử của người Việt trên đảo và những khó khăn, tranh đấu của phu mỏ Việt cũng như những yếu tố tác động đến việc chính phủ Pháp đưa họ hồi hương.


Những người trở về đã chịu nhiều áp lực vì biến động và hoàn cảnh chính trị thế giới vào giai đoạn đó. Cũng có luận điểm cho rằng cộng sản đã ảnh hưởng nhiều đến công nhân phu mỏ người Việt ở đây nên họ đã đòi hồi hương.


Nouvelle Calédonie là nơi Pháp giam giữ tù nhân vào cuối thế kỷ 19, với nhiều tù chính trị từ Pháp và từ thuộc địa như Algerie, Đông Dương.


Từ cuối thể kỷ 19 Pháp đã đưa người Việt qua đảo. Chuyến tàu đầu tiên có 700 người, đa số là tù Côn Đảo.


Từ năm 1891 đến 1939 có tất cả 21.000 người Việt sang đây làm phu mỏ, theo hợp đồng 5 năm.


Đến đầu thập niên 1960 có chính sách đưa phu mỏ Việt trở lại Việt Nam, hầu hết là trở lại miền bắc, vì khi được đưa qua đây làm phu, họ là dân xứ Bắc Kỳ (Tonkin).


Khi ở Úc, biết tôi sẽ đi chơi Tân Thế Giới, một bác gốc Quảng Ninh đã kể rằng một số người khi hồi hương về Bắc có đem theo của, rồi dần cũng bị nhà nước lấy hết, kể cả những chiếc đồng hồ đeo tay.


Đến giữa thập niên 1980, Pháp và Việt Nam có thỏa thuận cho tái định cư ở Nouvelle Calédonie những ai có thân nhân còn ở đây. Nhiều người hồi hương trước đây, nay có cơ hội trở lại đảo để sinh sống và được nhập tịch Pháp.


Những ngày đi chơi Nouméa tôi đã thấy các cửa hàng tạp hóa, thức ăn với tên Việt như Mai Linh, Man Duong, Hanoi Plage, Along Beach, Như Ý và gặp được người Việt gốc Nam Định, Hà Nội, Ninh Bình, Bắc Ninh, Tuyên Quang.


Chợ chính của thành phố ở gần bến cảng cũng có nhiều sạp hàng của người Việt bán rau muống, mít, mãng cầu dai.


Trung tâm du khách gần tòa thị chính có quảng cáo hướng dẫn du lịch của anh Francois Trần.


Một buổi tối ở khách sạn, xem cuốn niên giám điện thoại thấy ở Nouméa họ Nguyễn có đến hơn trăm danh mục, chiếm hết gần một trang. Họ Trần 50, Phạm 30, Bùi 22, Hoàng 20, Ngô 4. Những khu vực quanh thủ đô như Dumbéa cũng có vài chục họ Việt. Xem kỹ từng tên, đa số có tên Pháp, nhưng vẫn còn những tên thuần Việt như Nguyen Ngoc Duc, Nguyen Minh Hoang, Hoang Thu Anh, Hoang Trong Thanh v.v…


Vì là thuộc địa nên ở đây có nếp sống Pháp. Nhiều nơi bán bánh mì jambon và các loại bánh ngọt. Một chiều ở bến cảng nghe ca sĩ Patricia Ségui hát nhạc Pháp rất dễ thương.


Một ngày có du thuyền cập bến, du khách tràn ngập khu này tìm mua đồ kỉ niệm là những chiếc áo mầu sặc sỡ hay đồ thủ công là những chiếc xe xích lô, xe vespa bằng gỗ mà tôi ngờ đó là hàng sản xuất từ Việt Nam. Nét văn hóa châu Á còn được biểu hiện qua những bộ tem thư mười hai con giáp do bưu điện phát hành vào dịp tết âm lịch.


Gần bến cảng có siêu thị Casino như siêu thị ở Mỹ và trong đó có bán thức ăn Việt như nem làm sẵn, phở gói, bánh tráng, nước mắm, mắm nêm.


Một buổi chiều chúng tôi ghé mua thịt bò, khoai, đậu và bơ, bánh mì về làm bíp-tếch ăn tối. Khi đến quầy rượu, định mua một chai vang thì nơi đây rào lại. Hỏi ra mới biết sau 12 giờ trưa không cho bán rượu, muốn mua phải chờ sáng hôm sau.


Về khách sạn, hỏi lễ tân và anh chỉ cho một nơi được phép bán rượu trong giờ cấm, cách khách sạn chừng 30 phút đi bộ. Theo chỉ đường, chúng tôi đến đó.


Nhưng mới chỉ vài phút sau khi rời khách sạn, thấy bên đường có một cửa hàng mang tên Việt, ghé vào xem có gì lạ. Thấy chỗ để bia rượu có vải che, nhưng còn một kệ với rượu vang để mở. Tôi đang chọn rượu thì được chủ cửa hàng giải thích là giờ này không được bán rượu.


Khi biết chúng tôi là người Việt, bác nói sẽ bán cho, nhưng phải giấu vào giỏ đeo. Tôi mua một chai, cái mở nút, một lon bia Number 1, là bia nội địa, tất cả chừng 15 đô.


Chị chủ tiệm, người Tuyên Quang, theo bố mẹ qua đây định cư từ năm 1992, còn chồng gốc Nam Định. Nghe kể vào những năm 1960 Pháp đưa người hồi hương mà con cháu không muốn về cũng bị bắt buộc phải về.


Đến cuối thập niên 1980 chính phủ Pháp lại có chính sách cho trở lại Nouvelle Calédonie định cư nên gia đình chị được người bác bảo trợ qua đây. Chị kể, lúc trước còn dễ, cho con cái đã có gia đình cũng được đi, bây giờ chỉ con dưới 18 tuổi mới được đi theo.


Người Việt qua đây chịu khó làm ăn, mở cửa hàng buôn bán nên đời sống cũng khá. Anh chị trước đây có mấy cửa tiệm, nay đã sang lại chỉ còn giữ tiệm này. Một người con gái của anh chị đang học thạc sĩ luật bên Pháp.


Hỏi thăm đời sống, anh cho biết lương giáo viên ở đây từ 5 đến 7 nghìn đôla một tháng, được coi là cao. Mua nhà có thể trả góp, mỗi tháng bằng 30% lương, và phải chứng minh được thu nhập vì cơ quan chức năng sợ có việc rửa tiển của những thành phần làm ăn bất chính.


Người Việt ở Nouméa có đến vài nghìn, trong số chừng 100.000 cư dân. Ở đây có nhà thờ với cha người Việt từ địa phương. Cũng có chùa nhưng nhà sư từ trong nước qua lo giúp, nay đã về lại nên giờ đang xin một thầy khác qua.


Sinh hoạt tập trung tại Hội Ái hữu Việt Nam và chính phủ Việt Nam mới cử một người làm tổng lãnh sự danh dự ở Nouméa. Người Việt ở đây có liên hệ thân thiết nhất là với hội đồng hương Tân Đảo ở Nam Định.


Trước khi chia tay chúng tôi cám ơn anh chị đã cho cơ hội được biết về người Việt ở hải đảo này và được có rượu để uống tối nay.


Những ngày rong chơi ở Nouméa chúng tôi vào thăm Bảo tàng Nouvelle Calédonie để thấy nét văn hóa truyền thống của dân bản địa Kanak trải qua nhiều thế kỷ. Từ cách đan rổ rá, rọ bắt cá, cung tên bằng tre, nhà lá vách đất, cho đến cách làm thuyền buồm để vượt đại dương, đến những ảnh tượng mỹ thuật bằng gỗ, kim loại.


Nouvelle Calédonie trong những năm Thế chiến Thứ Hai được Pháp cho Hoa Kỳ dùng làm căn cứ quân sự. Anse Vata đã từng là khu bệnh viện chữa trị cho binh lính bị thương ở mặt trận Thái Bình Dương.


Lính Mỹ đã đổ bộ lên đây vào ngày 12 tháng 3/1942 và lúc cao điểm đã có 130.000 lính Mỹ đồn trú trên đảo. Trong thời gian chiến tranh, hơn một triệu lính Mỹ đã dừng chân tại đây.


Ngày nay ở Nouméa có Đài Tưởng niệm người Mỹ (American Memorial), có Bảo tàng Thế chiến Thứ Hai trên đường Paul Doumer, trong đó ghi lại hoạt động của Hoa Kỳ và đồng minh khi tham chiến, cho đến năm 1946 sau khi Nhật đã đầu hàng.


Nouvelle Calédonie chính thức là thuộc địa của Pháp từ năm 1853. Rộng 18.000 kilô-mét vuông, với 270.000 dân, đến nay đảo này tuy được tự trị nhưng vẫn nằm trong sự kiểm soát của Pháp.


Tuy đã có những phong trào đòi độc lập, nhưng qua nhiều lần trưng cầu dân ý, đa số cư dân Nouvelle Calédonie vẫn không muốn tách rời khỏi nước Pháp.


[nguồn: VOA]

blank

H01: Cuối tháng 12 ở Nouméa có hoa phượng rực nở (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H02: Trạm xe buýt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H03: Tượng Chân Đăng (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H04: Cửa hàng bán đồ điện tử của người Việt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H05: Tem thư do bưu điện Nouvelle Calédonie phát hành dịp Tết Âm lịch (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H06: Nem và phở là những món ăn Việt được nhiều người biết đến ở Nouméa (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H07: Bảo tàng Thế chiến Thứ Hai  (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H08: Mỹ thuật của người bản xứ Kanak trong Bảo tàng Nouvelle Calédonie  (Ảnh: Bùi Văn Phú)

blank

H09: Tiệm tạp hóa và thức ăn của người Việt (Ảnh: Bùi Văn Phú)

 


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.
Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến động nghiêm trọng về kinh tế, chính trị và công nghệ, toàn cầu hoá – vốn từng được xem là động lực chính thúc đẩy cho tăng trưởng và thịnh vượng – đang đứng trước những thách thức chưa từng có. Tiến trình công nghiệp hoá và toàn cầu hoá đã đem lại nhiều thành tựu vượt bậc trong suốt thời gian dài qua, từ thế kỷ XX sang thế kỷ XXI, đặc biệt là thông qua sự chuyên môn hoá, tự do thương mại và tiến bộ công nghệ. Tuy nhiên, các cuộc khủng hoảng tài chính, đại dịch toàn cầu, chiến tranh và cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc đã khiến mô hình toàn cầu hoá truyền thống bộc lộ nhiều tình trạng bất ổn...
Nhiều thế hệ sống ở Sài Gòn những năm của thập niên 80-90, khi con gà trống của Thương Xá Tax chưa bị bức tử, khi những hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng vẫn là nét thơ mộng của Sài Gòn, có lẽ đều quen thuộc với câu “Chương Trình Truyền Hình Đến Đây Là Hết…” Nó thường xuất hiện vào cuối các chương trình tivi tối, khi chưa phát sóng 24/24. Thời đó, mỗi ngày truyền hình chỉ phát sóng trong một số khung giờ nhất định (thường từ chiều đến khuya) nên hầu như ai cũng có tâm lý chờ đợi đến giờ ngồi trước màn ảnh nhỏ, theo dõi vài giờ giải trí. Đó cũng là chút thời gian quên đi một ngày cơ cực, bán mồ hôi cho một bữa cơm độn bo bo thời bao cấp. Nhắc nhớ chút chuyện xưa, để nói chuyện nay, đang diễn ra ở một đất nước văn minh hàng đầu, từng là niềm mơ ước của biết bao quốc gia về quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận.
Trên mạng gần đây lan truyền một bức tranh chuỗi tiến hóa ngược nhại kiểu Banksy - vẽ hình ảnh tiến hóa quen thuộc từ khỉ tiến tới người, nhưng đến giữa chặng đường, một gương mặt ai cũng nhận ra quay lưng đi ngược lại về phía khỉ. Cái dáng ngoảnh đầu ấy khiến tôi chạnh lòng nghĩ đến hình ảnh nước Mỹ hôm nay. Giữa thế kỷ XXI, lẽ ra phải tiếp tục đi tới, nhưng thay vì mở rộng tự do học thuật – ngọn nguồn của sáng tạo – chúng ta lại thấy những dấu hiệu nước Mỹ thoái lui theo một quỹ đạo lạ lùng: thử nghiệm một kiểu “tiến hóa ngược”.
Từ khi Tối Cao Pháp Viện lật đổ Roe v. Wade, chúng ta đều biết câu chuyện không dừng lại ở đó. “Để tiểu bang tự quyết” chỉ là cái cớ. Và Texas, tiểu bang bảo thủ dẫn đầu, vừa chứng minh điều đó bằng một luật mới: trao cho bất kỳ ai quyền săn lùng và kiện những người dính dáng tới thuốc phá thai. Texas vốn đã có một trong những lệnh cấm khắc nghiệt nhất: phá thai bị cấm hoàn toàn, trừ vài ca y tế khẩn cấp. Không ngoại lệ cho thai dị tật chết non. Không ngoại lệ cho hiếp dâm. Không ngoại lệ cho loạn luân. Thế nên, nhiều phụ nữ Texas chỉ còn con đường tìm đến thuốc phá thai qua mạng, thường từ những nhà cung cấp ở ngoài tiểu bang. Luật mới nhắm thẳng vào cánh cửa mong manh ấy.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.