Hôm nay,  

TẢN MẠN GIAO THỪA

25/01/202017:53:00(Xem: 4800)

Dao NhuĐêm nay, tôi nhớ về anh, người lính, người bạn và cũng là một bịnh nhân. Trong những lúc cần tư vấn tâm thần, anh đã ghé lại truyện vãn chia sẻ với tôi. Như anh đã nói: Cuộc đời chúng ta là những mảnh vụn được ráp nối từ nhiều nơi chốn khác nhau mà chúng ta đã đi qua.  Nhưng ngoãnh mặt lại, nhìn thấy mình đi qua nhiều đất nước mà bản thân mình đã đánh mất quê hương. Anh thường ray rức, cho dù quê hương không còn chúng ta, chúng ta vẫn còn quê hương ngày ngày đến với ta trong từng bát cơm, đôi đũa. Đêm đêm quê hương hiện về ấp ủ ta từng giấc ngủ, chiêm bao. Quê hương của chúng ta cũng có những khó khăn như mọi nơi trên thế giới: Hạt mầm phải nẻ đất mà chun ra, cây lúa đứng lên cũng phải đạp đất đội trời!

 Nhiều lúc không e-dè, anh mạnh dạng bảo, chúng ta muốn trút bỏ thân phận lưu đày, trở về với quê hương. Ai? Ai dám tước đoạt lòng yêu nước của chúng ta? Ai dám tước đoạt quyền công dân của chúng ta? Ấy thế mà vẫn có người đấy. Tự do, Dân chủ là văn hóa của dân tộc. Nó đựơc kiện toàn trong lòng của mỗi dân tộc. Tự do dân chủ không thể nào là một thể chế áp đặt từ bên ngoài. Ấy thế mà vẫn có những kẻ đang rấp tâm đấy.  Anh có lần nói với tôi là trái đất hẹp quá, nhỏ quá, cằn cỗi quá không đủ đất dung thân cho những người yêu nước như chúng ta.

 

      Đêm hôm ấy anh gọi tôi. Vâng, anh gọi tôi, vào lúc giao thừa. Đêm hôm ấy, ngoài trời, Chicago, tuyết đổ ngập đường và tê buốt hơn đêm nay nhiều. Anh bảo với tôi là anh buồn lắm. Anh tố cáo cái đầu của anh đang vô cùng căng thẳng nó sắp nổ tung. Anh cảm thấy đời anh vô vọng. Anh không hiểu là anh sẽ làm gì, chuyện gì sẽ xảy đến cho anh và cho cậu con trai của anh trong một vài giờ tới. Tôi hỏi anh, anh thấy trong người như thế nào?. Anh bảo anh là một vật đang rơi ngoài trọng tâm, đang rơi ngoài thế giới của Newton, nó đang rơi như chiếc F5 của anh bị trúng đạn hỏa tiển địa không rớt năm 1972.. Tôi hiểu ngay điều gì anh muốn nói. Tôi hỏi anh, anh đang có ý định tự tử phải không?. Tôi nghe anh cười ngặt ngoẹo. Tôi nghĩ gương mặt anh lúc đó trông thật là khủng khiếp. Anh trách tôi là trong gần hai năm qua tôi không ngừng hỏi anh câu hỏi ấy. Đó là câu hỏi mà anh rất sợ. Anh đã từng bảo với tôi: Anh sợ nhất là phải nói sự thật về những điều mình đang suy nghĩ, về những điều mình muốn làm. Ngay cả mình muốn chết mình cũng không dám nói vì người ta sẽ hỏi lại mình như Néron đã từng hỏi một xác chết: “Ai cho phép hắn tự tử? Ai cho phép hắn chết?”...Tôi nghe anh nói rất nhỏ: Vâng, ông ạ, tôi đang muốn tự tử đây. Tôi đang muốn chết đây. Điều khó là làm sao tôi rức thằng con tôi ra khỏi tôi. Tôi đâu có quyền giết con tôi. Mà này nhé, nếu ông gọi 911, tôi chỉ cần nghe tiếng còi hụ của xe cứu thương hay anh đèn xanh đỏ của xe cảnh sát lập lòe dưới building tôi ở, là tôi cho nổ ngay thùng xăng trước mặt tôi.

    Tôi hứa với anh là tôi không gọi 911. Tôi van anh, anh hiểu cho tôi, tôi sẽ đến anh ngay, trong vòng 30 phút.

 

Tôi đến anh vào lúc nửa khuya, giao thừa.

    - Chào Trung Tá, năm mới tôi ‘đạp đất’ nhà ông đây. Chúc ông năm mới bay cao, ngoài tầm sát hại của hỏa tiển địa không- Sức khỏe vẹn toàn.

     Anh quát vào mặt tôi

- Thôi đừng có láo! Ông đang rơi xuống hố thẩm của đời. Đừng có vờ vĩnh. Ông đang ở bên bờ vực thẩm. Không thể nào trốn thoát được. Trên đầu là cái thòng lỏng đang trao vào cổ, dưới chân là đất đang sụp lỡ, đất đang chùi. Cái chết là ông nhìn thấy chắc rồi. Không! Không! Không! Nó không phải là ảo tưởng. Nó không phải là hoang tưởng. Nó là sự thật. Chúng ta sống trong khổ đau, trong trần truồng không một tia hy vọng dù cho một hy vọng nhỏ nhoi. Đời ác độc với tôi quá.

Rồi Anh đau đớn. Anh bảo anh không phải là thằng người ham sống, không phải là kẻ hèn. Anh chỉ vì thằng con anh còn nhỏ quá, mới có 10 tuổi. Nó cần phải sống. Nó là những gì còn lại của anh trên trần gian này. Anh ngồi bệt xuống, tay bưng mặt khóc rưng rưng. Trong một gốc tường, tôi thấy cặp mắt của con trai anh đang hướng về anh. Cháu đứng dậy, tiến đến anh. Cháu dìu anh ngồi vào ghế y như cháu là người đã lớn đã trưởng thành. Ít ra cháu cũng đã trưởng thành với những trạng huống như thế này. Có phải chăng sống trong cảnh khốn cùng nhiều lúc làm cho con người trưởng thành trứơc tuổi.

 

     Thế rồi vào một buổi sáng mùa Thu tại Chicago, anh đến gặp tôi. Lại mùa Thu! Mùa Thu là mùa của hòai niệm, mùa của hình ảnh kẻ chinh phu trở về trong lòng người cô phụ, mùa của những người tình nhớ những người tình. Nhưng đối với một Bác sĩ chuyên về bịnh tâm thần như tôi, mùa Thu là mùa của u-hoài, trầm cảm, mùa trổi dậy của quá khứ đau thương, những vết thương lòng tưởng chừng như đã quên. Hương sắc của mùa Thu làm quay quắt lòng người. Mùa Thu Chicago, mùa trầm cảm của người bi bịnh tâm-thần phân-liệt. Anh đã đến gặp tôi trong khung cảnh mùa Thu như vậy đó. Hôm ấy anh đến thăm tôi và cho tôi hay là anh mắc phải một bịnh chứng quái ác: Co thắt động-mạch-chủ (coarctation of aorta), anh cần giải phẫu để giải phóng co thắt và thay‘van’ động mạch chủ. Hiện giờ thường xuyên huyết áp của anh lên cao, khiến anh nhức đầu, nhức đầu kinh khủng đến độ nhiều lúc anh chán nãn và vô vọng. Anh ca ngợi bác sĩ của Cook County Hospital, là người chân thật, can đảm, ông nói tất cả sự thật tương lai bịnh tình của anh: Không mổ dĩ nhiên sẽ gặp nhiều tai biến vô cùng nguy hiểm. Còn mổ thì khả năng tử vong cao. Nhưng sống được thì cuộc đời vui vẻ hơn trong vài ba năm. Anh bảo anh đến gặp tôi như tìm đến tham khảo ý kiến. Anh cho hay là bác sĩ phẫu thuật của Cook County Hospital đã giới thiệu anh vào trong nhóm bịnh nhân ‘Selfhelp Group’ gồm có những người bị bịnh như anh. Trong bọn họ có những người chờ mổ thay van như anh, cũng có những người đã mổ rồi đã thay van trong vòng hai năm trở lại. Anh cúí xuống anh nói rất nhỏ, hình như anh muốn nói vừa đủ cho một mình anh nghe: Không ai sống quá ba năm sau khi mổ cả…

     Vụt anh đứng phắc dậy. Anh đấm mạnh vào tường anh tức tối: Tôi phải chết. Tôi phải chết trong oan nghiệt thế này sao? Tôi phải chết trong cô đơn như thế này sao? Tôi chết như một kẻ vô gia đình, vô tổ quốc? Tôi chết trong thân phận lưu đày. Chiến tranh đã hủy hoại đời tôi và định mệnh đang vây bủa và vùi dập tôi. Tôi là một phi công, tôi đã từng là Pilot đưa các nhà ngoại giao, những vị nguyên thủ quốc gia, đi đến 37quốc gia trên thế giới. Tôi sống nhiều năm ở châu Âu và Maroc, Alger, Marakech, Mỹ. Tôi biết cả ngàn con đĩ và đàn bà của gần hơn cả trăm quốc tịch khác nhau. Tôi lái C130 rải thuốc khai hoang màu vàng cam nữa. Như vậy đó! Như vậy đó…Tội ác của mày lớn lắm...Nghe anh tự kết án đời mình, tôi thật sự hiểu anh và kính trọng anh. Tôi cũng mong rằng anh hiểu cho tôi, tôi đang đau khổ cho anh cũng như anh đang đau khổ cho chính bản thân tôi. Tôi là bác sĩ phẫu thuật, tôi thấu hiểu tất cả tai biến của thay van động mạch chủ trong lúc phẫu thuật cũng như sau khi phẫu thuật. Tôi đau đớn nghe những lời sấm hối của anh. Thật sự anh không hề làm những gì để có thể gọi là tội ác cả. Tất cả tại chiến tranh. Chính chiến tranh mới là tội ác.

 

    Sau đó mấy tháng, tôi đưa anh vào bịnh viên Cook County Hospital để chuẩn bị mổ cho anh. Vì là một counselor của anh, và cũng vì anh không có một thân nhân nào trên 18 tuổi bên cạnh anh trong lúc này, nên tôi phải ‘cosign’ theo lời yêu cầu của bịnh viện, bản cam kết đồng ý chấp nhận phẩu thuật cho anh. Khi tôi cúi xuống ký tên bên cạnh chữ ký của anh, tôi nghe anh nói: Cám ơn bác sĩ, bác sĩ là người can đảm phi thường.  Không đâu anh, anh có biết, sau khi đưa anh qua bên trong cánh cửa phòng mổ, tôi bưng mặt khóc rưng rưng. Thú thật tôi không hiểu là tôi khóc cho anh? Tôi khóc cho tôi? Tôi khóc cho chúng ta? Hay tôi khóc cho một cái gì đó, vừa mơ hồ vùa xác đáng. Tôi khóc cho thân phận con người trong chiến tranh và sau chiến tranh…

  

    Vài tháng, sau đêm giao thừa hôm ấy, anh qua đời vì tai biến đột quị. Bây giờ tôi viết về anh. Tôi không hiểu tôi sẽ nói những gì với anh? Thật khó! Khó lắm phải không anh? Mặc dầu chúng ta đã có những giờ phút san sẻ, gửi gấm, trút hết cho nhau mọi tấc lòng. Nhưng có một điều tôi chưa chia sẻ với anh là cách đây hai tháng tôi được đọc một bài thơ của Phùng Khắc Bắc. Phùng Khắc Bắc là cựu chiến binh bên kia chiến tuyến, anh còn sống sót đến ngày 30/4/75. Anh cũng là một nhà thơ trẻ đầy nhiệt huyết với hòa bình với tổ quốc. Sau 30/4/75 đơn vị anh giải thể. Anh về với gia đình với mẹ đơn côi. Anh viết bài thơ:

 

NGÀY HÒA BÌNH ĐẦU TIÊN

                                        

 Những sợi nắng xuyên qua nhà mình

Thành những mũi tên

Thành những viên đạn

Bắn tiếp và anh không gì che chắn

Phải nhận tất cả

Van anh

 

Hôm qua chưa nhận được một viên đạn

Hôm nay nhận được lỗ thủng

Anh về quê không mang súng

Vũ khí lúc này là hai bàn tay...

 

Mẹ giục ăn cơm con

Hòa bình trong canh cua, rau mồng tơi, cà

Và mùi ổ rơm./.

 

Một bài thơ rất người, rất nhân bản. Thế mới biết những anh em bên kia chiến tuyến cũng đồng máu huyết, hoàn cảnh, với anh em chúng ta. Khi đọc bài thơ chúng ta nghe thật đau như viên đạn xé tim mình. Ôi chiến tranh! Ấy thế mà nhà thơ Phùng Khắc Bắc không còn nữa anh ạ. Anh ấy qua đời trước tuổi 40. Anh ấy hình như bị giết chết vì biến chứng của sốt rét ác tính mà anh mắc phải ở Trường sơn trong thời kỳ anh đi ‘B’. Chiến tranh vẫn theo đuổi anh ấy. Cũng như anh, nhà thơ Phùng Khắc Bắc đã chết vì tai biến của chiến tranh trong những ngày hòa bình…/.

 

 

 

Đào Như

Oak park, Illinois, USA

Tiết Xuân BinhTuất-2006

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.