Hôm nay,  

Khâu Vàng Của Mẹ Tôi

10/05/202018:53:00(Xem: 5817)

Tặng chị hai và anh tư

Có nhiều nhà văn, nhà thơ, khi viết về mẹ, đã thảng thốt kêu lên rằng, mẹ ơi, con đã làm bao nhiêu bài thơ cho nhiều người con gái, con đã viết bao nhiêu truyện, bao nhiêu hồi ức cho nhiều người con gái, nhưng con viết về mẹ ít quá, chỉ một, hai bài, hay, chỉ một, hai trang.


Tôi cũng vậy, những bài tôi viết về mẹ có lẽ là lúc tôi đang thất tình hay cạn đề tài… Tình yêu của tôi cũng linh tinh, lang tang lắm, có thể có người phê phán tôi là đào hoa, đa tình… Nhưng chuyện này xin hãy nói sau… Bây giờ nhân Ngày của Mẹ, tôi viết về mẹ tôi, một truyện (như thật) cho Ngày Của Mẹ. Có một điều, tôi hiểu và nói ra trước, là Mẹ tôi, rất bình thường, tầm thường nữa là khác. Nhưng với tôi, Mẹ thật vĩ đại, ít ra trong những ngày cơ khổ nhất đời tôi.

 

Tôi chỉ xin kể về Mẹ, ngày tôi từ trại tập trung cải tạo trở về.

Ra trại, tôi về Sài Gòn, nhưng trong cái Giấy Ra Trại ghi là, nơi đăng ký thường trú, làng An Mỹ, xã Tam An, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.

Tôi là sĩ quan chế độ cũ, nên về quê, tôi sợ. Sợ bị trả thù, sợ bị cho đi học tập lần thứ hai, sợ đủ mọi thứ. Sợ cán bộ xã, ấp, sẽ "đì", ngóc đầu không lên nổi. Thế là tôi bèn về ở Sài Gòn để lánh. "Lánh" nghĩa là sống chui, sống nhũi, sống không hộ khẩu, không tạm trú, không... không gì cả, chỉ biết hàng tháng "chi" tiền cho công an khu vực, để được sống yên mà thôi.


Tôi đã bỏ Mẹ tôi ngoài quê. Mẹ sống một mình, làm lụng một mình, ăn, ngủ một mình… suốt bao năm. Điều mơ ước nhỏ nhoi của tôi, ở trong trại cải tạo, là ngày về được sống cùng Mẹ, làm việc cùng Mẹ, để có chút đỉnh tiền, nuôi thân mình, cùng nuôi Mẹ. Ước mơ nhỏ bé đó cũng vuột khỏi tầm tay, khi tôi sống ở nơi xa mẹ, gần 900 cây số đường bộ. Sài Gòn - Quán Rường, Tam Kỳ.

Thật xa lăn lắc.

 

Thân phận của một người tù cải tạo trở về thì ai cũng biết. Thật là bi thảm. Tôi hứng chịu, phải sống chui rúc, sống không hộ khẩu, đeo theo gia đình nheo nhóc, để cố gắng, làm ăn, nuôi con. Tôi làm đủ mọi nghề, từ đi bửa củi thuê cho các sạp củi, dọc lề đường, đến vá xe đạp lề đường, bán bánh bò bánh tiêu, đạp xích lô...

Đi bán bánh tiêu, bánh bò trên khắp ngã đường, từ ngã ba ông Tạ, lên đến khu Chợ Lớn, khu cư xá Lữ Gia. Tôi theo chân một người bạn, nguyên là đại úy cùng đơn vị cũ, đó là anh Nguyễn Xuân Thao, người Đà Nẵng.

Một hôm tôi ở nhà, vô công rổi nghề. Nhà tôi thuê lúc ấy ở khu Nam Hòa, Phường 6, Tân Bình. Tôi nghe tiếng rao, bánh bò, bánh tiêu đây. Tôi nhìn ra thấy một người đàn ông gầy gò, đội chiếc nón phớt, đi trên một chiếc xe đạp, đang rao bán bánh bò, bánh tiêu.


Nhìn kỹ, thì ra đó là anh Thao, bạn cùng chung đơn vị với tôi. Tôi mừng rỡ ra chận xe anh lại và hỏi thăm. Thao cũng mừng khi gặp lại tôi. Nghĩa là qua những câu xã giao, là chuyện công việc, đến cuối cùng thì tôi nhờ anh giúp tôi, chỉ tôi cách bán bánh bò bánh tiêu, cũng như cách lấy hàng?.

Tôi theo nghề anh, nhưng đã thất bại...Tôi đã đi qua khắp các ngã đường Sài Gòn - Chợ Lớn, từ khu cư xá Bắc Hải đến khu Chợ Lớn, đường Lý Thường Kiệt… Tôi đã đạp xe vào những con hẽm nhỏ nhất. Người dân ở đây phần nhiều là người Tàu… Tôi rao tiếng không to vì giọng tôi chỉ đến chừng đó. Sau khoảng hai tuần, thấy không có kết quả, số bánh tồn lại không bán được, quá nhiều… Đem về cho con ăn thì được, nhưng số vốn ít ỏi tôi có, càng ngày càng thu hẹp, nên tôi đành phải bỏ nghề.

Tôi đi tìm nghề khác, những nghề không vốn thì tốt hơn.

Cũng là một duyên may, tôi gặp Tự, một người bạn cùng khóa sĩ quan. Chàng ta đang làm công việc đạp xe xích lô. Nghề này là nghề không vốn, chỉ đem bán sức lao động của mình thôi, nên tôi nhờ Tự chỉ giúp tôi vào nghề. Hiện tại thì Tự đang thuê chung xe với một người bạn nữa cũng là dân cải tạo về. Tự giới thiệu giúp tôi với người chủ xe, và được người chủ chấp nhận. Tôi nhận ca sáng, tức là từ 5 giờ sáng đến 2 giờ chiều. Ca này rất căng vì nắng Sài Gòn như đổ lửa, nên đạp xe rất mệt...nhưng được cái là khách hàng khá hơn vì ban ngày ban mặt, nhiều sinh hoạt mua bán, cần vận chuyển...nên bỏ sức ra đạp xe cũng có được đồng ra đồng vào...

Sau đó, qua 2, 3 đời chủ xe nữa...Và tôi nhận thấy rằng...thuê xe xích lô chạy cũng bất lợi cho mình, là một ngày phải đóng cho chủ khoảng 10 đến 15 đồng, coi như mất một, hai kg gạo...Số tiền này có thể đủ gạo cho gia đình tôi ăn trong một ngày...Tôi loay hoay mãi và suy nghĩ...Nếu mình có chiếc xích lô riêng thì tốt biết mấy. Từ đó trong tâm tôi vẫn có ý định làm sao có đủ tiền, để mua một chiếc xích lô riêng.

Chuyến thuê xe xích lô đạp lần sau cùng là với Tý, đứa cháu. Tý là con ông anh vợ. Năm đó Tý khoảng 16 đến 18 tuổi là cùng. Ông anh đã từng một thời oanh oanh liệt liệt trên chính trường miền nam. Ông là lãnh tụ một đảng phái quốc gia, đã từng làm "ông lớn"...Nên sau miền Nam thất thủ, ông cũng như những người ngụy quân, ngụy quyền hay đảng phái phản động khác, phải đi trình diện cải tạo. Nhưng ông nặng ký hơn, nên trong thời điểm đó, ông chưa về.

Thuê xe đạp chung với Tý được khoảng đâu 6 tháng, thì một hôm Tý báo tin, chủ xe định bán xe, không cho thuê nữa, thời hạn một tháng, hai tháng thôi...Thế là tôi loay hoay, tự nghĩ, mình sẽ thất nghiệp nữa rồi. Nhưng cùng trong ý nghĩ thất nghiệp, tôi lại có ý nghĩ vươn lên, làm sao kiếm đủ tiền để mua lại chiếc xích lô này. Tôi hỏi Tý về giá chiếc xe, Tí nói khoảng chừng chỉ rưỡi.

Tôi loay hoay, một chỉ rưỡi thì không có rồi, đã gần 3 năm chạy xích lô, tiền thu vào ngày nào cũng "phủi lủm" ngày đó, nên đâu có tiền dư… Tôi nhìn những người thân chung quanh mình, ai cũng chạy ăn từng ngày, cũng đầu tắt mặt tối...thì biết nhờ ai đây. Có lẽ phải bó tay thôi, sẽ tiếp tục kiếm mối khác thuê xe mà chạy. Nhưng trong tâm trí tôi vẫn lởn vởn chiếc xe này, nếu mình làm chủ được chiếc xe này thì tốt quá… Có xe rồi, muốn chạy giờ nào, giấc nào cũng được, buổi chiều trời mát thì chạy thích hơn, đạp xe nhẹ nhàng hơn.

May sao đó là vào dịp cuối năm, tôi xin nghỉ trước một tuần để về quê thăm mẹ.

Một năm, dù đầu tắt mặt tối ở Sài Gòn, tôi không giờ nào, ngày nào tôi không nhớ về mẹ tôi. Mẹ tôi lúc ấy đã già, đã gần bảy mươi, một mình sống vò vỏ ở quê. Nghề nghiệp của mẹ là bán thuốc rê ngoài chợ. Cái nghề này mẹ tôi có từ lâu. Lúc còn trẻ, mẹ đã đi mua thuốc rê từ các vùng xa như Khánh Thọ, Lò Rèn, Trường Xuân, những nơi có trồng nhiều cây thuốc lá...Người chủ vườn thuốc lá lựa ra những lá thuốc kém chất lượng hơn, đem xắt nhỏ, rồi trải ra liếp phơi nắng. Sau đó quấn thành rê thuốc, bán cho bạn hàng. Mẹ tôi làm nghề này suốt ba, bốn mươi năm. Nay mẹ đã già, nên thu vén lại, làm cò con. Là mẹ vô Khương Mỹ, nơi có bán các liếp thuốc rê, đem về ra chợ Quán Rường bán lại. Chợ chiều, mẹ bán cho những người dân quê hút thuốc. Tiền lời không bao nhiêu, chắc mỗi ngày mẹ chỉ kiếm khoảng vài, ba đồng, đủ mua lon gạo, chút rau, chút cá về nuôi sống chính mình. Tôi và anh tôi đang ở phương nam, cũng xất bất xang bang kiếm ăn từng bữa, làm sao nuôi mẹ đây.

Trong chuyến về thăm mẹ năm đó, tôi cố gắng dành dụm ít tiền để mua vé xe đò, chút ít quà cho mẹ, gởi thêm tiền ăn cho mẹ, làm mâm cơm cúng cha...Chỉ thế thôi.

Nhìn mẹ già, gần bảy mươi, tuy già nhưng trông mẹ còn rắn chắc. Da mẹ có nhiều nếp nhăn chảy xệ hai bên má, má mẹ hóp nên tạo thành lằn, rảnh. Chân tay mẹ khẳng khiu thấy mà thương. Những ngày tôi về, mẹ không đi chợ bán nữa mà ở nhà với tôi, cũng có lúc mẹ chạy ra chợ, mua chút rau, chút cá, chút mắm về, còn thì hai mẹ con quấn quít bên nhau. Nhìn dáng mẹ đi lầm lủi, lúp xúp, như chạy...thương mẹ khổ suốt đời.

Trong lần này, gần mẹ, tôi đã kể mơ ước của mình, đó là tại tôi không có tiền, chứ có tiền, tôi mua chiếc xích lô chạy thì sẽ khá hơn. Tôi nói với mẹ như một tâm sự, chứ không có đòi hỏi gì, vì tôi biết mẹ  làm gì có tiền, mẹ cũng khổ, cũng chạy ăn từng bữa như tôi.


Buổi sáng hôm sau, hai mẹ con cũng ngồi trên chiếc chỏng tre ở phòng ngoài, nói chuyện với nhau. Chuyện xưa, chuyện nay, chuyện mồ mả ông bà tổ tiên, chuyện đám giỗ...hàng năm, những điều mà dù kham khổ đến mấy, mẹ tôi vẫn làm, chỉ một mâm cơm nhỏ, quả trứng, đĩa cá, đĩa thịt, mẹ không bỏ sót một đám giổ nào, từ ông cố trở xuống.

Hôm đó, tự nhiên mẹ lấy từ túi áo ra một cái bị vải nhỏ, được thắt nút  kỹ càng.

Mẹ nói:

- Con, thật ra mẹ bây giờ không còn gì nữa để cho con, chiến tranh loạn lạc đã tiêu tán hết. Gần đây, dì T con, còn được chỉ vàng, dì sợ mất nên nhờ mẹ cất giữ dùm. Bây giờ thấy con cần quá để mua chiếc xe làm ăn, thì mẹ giao chỉ vàng cho con, coi như mẹ cho hai anh em con làm vốn. Còn về phần dì, thì mẹ sẽ nói với dì sau.

Mẹ tôi tay run run, mở cái bị vải nâu nhỏ, kéo dây rút, lôi trong đó một khoen vàng độ một chỉ, màu vàng nhạt, tôi nhìn thấy không phải màu vàng au, có lẽ khâu vàng này hơi thiếu tuổi, đưa cho tôi. Tôi cảm động quá mà rơi nước mắt. Thật ra, suốt đời, đến thời điểm đó, tôi chưa cầm trong tay một chỉ vàng nào. Ngày đi lính, có lương, nhưng tôi không sắm vàng, chỉ hàng tháng đưa tiền cho vợ, để  lo cho gia đình, con cái, mà thôi.

Tôi tin mẹ, là chỉ vàng này của dì T gởi nhờ mẹ cất dùm, nhưng mẹ thương 2 thằng con trai quá, nên đành rút ruột mà cho anh em tôi. Nghĩ đến chuyện đó, tôi không cầm được nước mắt. Tôi ôm mẹ mà khóc, mà hun. Mùi hương ngái ngái từ áo mẹ, từ mùi mồ hôi, mùi vôi trầu, mùi nhà bếp, sao mà thơm quá. Sau này, tôi đã có dịp quen những người con gái xức mùi nước hoa thơm lựng, như mùi nước hoa Chanel 5, nhưng sao tôi thấy vẫn không bằng mùi hương vôi, cau, trầu của mẹ tôi xưa.

Khi trở về lại Sài Gòn, tôi viết thư cho anh tôi, nói là mẹ cho anh em mình chỉ vàng, thế đó. Anh tôi cũng rất vui, và anh cũng bằng lòng cho tôi mượn 1/2 chỉ vàng này, để mua chiếc xe xích lô, coi như chiếc xe chung của hai anh em. Nếu tôi chạy xe được khá khá, thì tôi sẽ chia chút đỉnh cho anh. Anh tôi cũng đi học tập cải tạo về, đang sống ở kinh tế mới với gia đình, cũng cực khổ trăm bề.

Khoảng hai, ba tháng sau, tôi mới mua được chiếc xích lô. Kể ra thì dài dòng, nhưng nói chung là từ đây tự tôi làm chủ chiếc xe của tôi, tôi muốn chạy sáng, trưa, chiều, tối, lúc nào cũng được. Tôi vui lắm.

Xin nói thêm là thời gian này, gia đình tôi thuê một căn phòng của một gia đình người bắc di cư, theo Thiên chúa giáo, ở khu Nghĩa Hòa, Phường 6, Tân Bình. Căn phòng (chỉ là căn phòng trống trơn), gia đình tôi để một chiếc giường rộng, đủ chứa 5 người, hai vợ chồng và ba đứa con, nên rất chật. Muốn đi vào căn phòng, phải đi theo một con đường luồng dài khoảng 15-20 mét. Mỗi khi tôi đạp xích lô về, tôi phải dắt xe theo đường luồng, để xe vào sát phòng tôi. Tôi cũng ỷ y vì nghĩ, chỗ này để xe chắc an toàn, vì phải dắt vào đường luồng hơi khó khăn...Với lại tính tôi rất hời hợt và tin người, cứ nghĩ, mình là dân khố rách áo ôm, chỉ có cái xe xích lô làm cần câu cơm, chắc chẳng ai dòm ngó gì...Nên buổi tối, tôi ơ hờ, không khóa xe kỷ lưỡng gì cả. Cứ để đó mà vào phòng...suốt mấy tháng, như vậy.

Không ngờ, chung quanh tôi toàn là cạm bẫy, hầm hố, bom mìn...Nói nghĩa bóng thế thôi, chứ vợ chồng người chủ nhà, anh chị Thuận, nhìn cũng tương đối hiền lành. Anh trước 75 là lính, đơn vị anh là sư đoàn 18...Bây giờ anh về làm thợ hồ, thường đi theo công trình xây nhà. Anh chị Thuận ăn nói tử tế, hay đi lễ nhà thờ hàng tuần vào thứ bảy, chủ nhật. Anh chị có 3 đứa con còn nhỏ khoảng 5, 6, 7 tuổi, hay phá phách, chọc ghẹo, ăn hiếp mấy đứa con tôi, nhưng tôi nghĩ, đó là những đứa con nít, con nít nhà ai chẳng vậy.

Nhưng thật ra tôi không tìm hiểu, vì tìm hiểu làm gì khi suốt ngày tôi gò lưng đạp xe, mài mòn đít trên yên xe...thì trong lúc đó, có một âm mưu lấy cắp chiếc xích lô của tôi mà tôi không hay.

Đó là anh Thuận có 3 người em trai, tuổi từ hai mươi đến ba mươi, vô công rỗi nghề...có tiền án tiền sự. Trước đây, đã từng ăn cắp, ăn trộm và hút chích...đã từng bị bắt giam sáu tháng hay một năm gì đó. Nay được thả về, vẫn vô công rổi nghề, hay ngồi quán cà phê hàng buổi, tán láo hay tìm kiếm "phi vụ".

Ba đứa em này, ở gần nhà anh Thuận, thường đến nhà anh Thuận chơi, đã rình mò chiếc xích lô của tôi, chú ý xe tôi không khóa hàng đêm. Nên một buổi sáng như mọi ngày...Tôi thức dậy và bận áo quần đi chạy xe, mở cửa bước ra ngoài, thì hỡi ơi, không thấy chiếc xe đâu cả. Tôi thất sắc, hết hồn, chạy trở vào nói nhỏ với bà xã:

- Em ơi, mất chiếc xích lô rồi, ai lấy chiếc xích lô của mình rồi.


Bà xã tôi thì bình tỉnh hơn, ra hiện trường xem thì chiếc xích lô không cánh mà bay, tôi hỏi mấy người hàng xóm thì ai cũng nói không biết, không thấy ai lấy cả.


Tôi đi báo công an phường 6, công an làm biên bản, nói sẽ điều tra. Tôi nghe lời vợ tôi mua túp thuốc ba số 555, biếu công an. Nhưng rồi ngày qua ngày, tuần qua tuần, tháng qua tháng, chiếc xe vẫn biệt vô âm tín.


Trong những ngày đau thương này, có một nhà đối diện, thương cảm hoàn cảnh của tôi, có chiếc xe còn dư cho tôi thuê đạp buổi sáng. Thế là tôi chỉ làm chủ được chiếc xích lô riêng của tôi đâu được 6 tháng, một thời gian quá ngắn. Tôi còn nợ người anh 1/2 chỉ vàng, tôi phải tiện tặn để dành để bù hoàn lại. Cũng hơn một năm sau tôi mới trả xong.

Mãi sau này, cũng bốn, năm năm sau, nhân dịp về quê, tôi mới kể chuyện này cho mẹ tôi nghe. Mẹ tôi không nói gì nhưng chắc mẹ tôi buồn lắm.

Tôi có nói với mẹ, làm sao để trả món nợ này cho dì T, mẹ nói, mẹ đã trả cho dì rồi, con đừng lo.


Tôi cũng xin nói thêm là mẹ tôi có ba chị em, là mẹ tôi, dì T và dì K. Dì T cũng vì tình duyên trắc trở nên dì sống một mình, dì làm cái nhà nhỏ gần cầu gò ông Đốc. Căn nhà trông rất hiu quạnh. Dì chỉ có một người con trai, đứa con trai đã lớn, có vợ con nên ra riêng.  Dì sống một mình. Dì vẫn hay lên nhà tôi mỗi sáng, dì đi quanh vườn, rồi vô nhà, tem miếng trầu ăn, nói chuyện với mẹ tôi đôi ba câu, rồi dì về. Thấy dì quạnh quẽ tôi  thương lắm.

Hình như khi tôi ở Sài Gòn, thì dì T mất, tôi nghe tin sau vài ba tháng, vì hồi đó đâu co` liên lạc dễ dàng như bây giờ, điện thoại không, tin nhắn không. Chỉ nghe tin qua những người cùng quê gặp ở Sài Gòn báo tin. Thế thôi.

Khi về thăm quê, tôi có ghé lại mả dì thắp hương. Mả dì chôn gần mả của cha tôi, nên mỗi lần về thăm quê, đi thắp hương mả cha, tôi đều thắp hương mả dì, như một tưởng nhớ.


Còn chú cả T, con trai dì, trước khi khi đi Mỹ, tôi về quê thăm có gặp chú, anh em nói chuyện vui vẻ, cũng có chút "chén tạc chén thù". Chú lớn tuổi hơn tôi nhưng vẫn gọi tôi bằng anh. Tính chú xả lã, vui vẻ.

Thế mà sau khi qua Mỹ, một, hai năm gì đó, tôi nghe tin chú chết. Một cái chết rất đau thương, nghĩa là một buổi sáng, chú và đứa con gái đi Đà Nẵng. Hai cha con chở nhau trên chiếc xe Honda, ra đâu đến Hương An hay Bà Rén gì đó, vì tránh một chiếc xe hàng ngược chiều, xe chú cán lên một hòn đá to, nằm bên vệ đường. Chiếc Honda lật lăn quay, chú chết ngay tại chỗ. Còn đứa con gái thì mê man bất tỉnh, coi như sống đời sống thực vật. Mãi đến mười, mười lăm ngày sau, bác sĩ cho gia đình biết không hồi tỉnh được, nên gia đình đành xin rút ống.


Nghe tin, tôi cũng thật bàng hoàng và thương cảm cho đứa em bạn dì của tôi. Tôi nghĩ, thôi, để bù đắp lại ngày xưa mẹ tôi đã lấy khâu vàng của dì T, cho tôi làm vốn, không biết mẹ tôi trả cho dì chưa, nhưng tôi cũng gởi về người con cả của chú $ 200 US, trước là để phúng điếu, hai là để xây cho chú nấm mồ bằng xi măng hay gạch ốp lát cũng tốt, như một sự trả ơn.

 

Viết đến đây tôi lại thấy thương mẹ tôi hơn lên. Điều mà tôi nghĩ hoài về chỉ vàng mà mẹ tôi nói là của dì T gởi, mẹ rứt ruột cho tôi và anh tôi trong lúc ngặt nghèo...mới thấy được tình mẹ to lớn bao la bao nhiêu. Có thể là mẹ tôi sẽ tần tảo từng đồng để dành tiền mua khâu vàng khác, trả lại cho dì, còn nếu không, thì tìm cách nói quanh, nói quất, để dì không đòi...Dù gì đi nữa, tất cả mẹ cũng vì con, nhường miếng cơm, manh áo cho con.

Thôi thì chuyện đã qua cũng gần bốn mươi năm qua rồi. Những người thân yêu nhất đời của tôi cũng lượt bỏ tôi mà đi. Cha, mẹ, dì T, dì K...Ai có thọ nhất...rồi cũng ra đi thôi, đó là luật thời gian, quy luật tạo hóa...Dì K tôi sống lâu nhất gần 100 tuổi...nhưng cũng ra đi cách đây mấy năm.


Ngày Của Mẹ, tôi lúc nào cũng thẩn thờ, nhớ hoài về những kỷ niệm ngày còn Mẹ. Nhưng nhớ chỉ thêm buồn.


Nhưng tâm hồn con người mà. Thương nhớ biết làm sao nguôi.


Trần Yên Hòa


Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.