Hôm nay,  

Tháng Năm Về, Nhớ Tiếng Dương Cầm

26/05/202009:17:00(Xem: 4832)

 


Chuyện xảy ra năm tôi 13 tuổi. Là một câu chuyện cũ xưa, chỉ vài tháng thoáng qua cuộc đời, nhưng chẳng bao giờ xưa cũ trong ký ức của cô học trò nhỏ.


Đó là một buổi chiều, lớp tôi được nghỉ môn học giữa giờ vì cô giáo bịnh. Chúng tôi, ba đứa bạn thân và tôi, rủ nhau ra ngoài trường, tản bộ trên vỉa hè quen thuộc có hàng cây rợp mát. Đi dọc theo đường Bà Huyện Thanh Quan, ngắm những căn biệt thự nằm khuất bên trong khoảng sân rộng, bốn đứa chúng tôi hỏi nhau căn nhà nào đẹp, và thích căn nào. Đứa thích nhà trồng nhiều hoa. Đứa thích nhà có cửa sổ bốn phía, v..v... Bỗng dưng tôi nghe có tiếng dương cầm văng vẳng trong gió khi vừa đi qua. Tôi dừng chân trước một biệt thự cổ kính. Âm thanh phát ra từ trên lầu. Tôi ngắm kỹ ngôi nhà và thấy bức tường đá của nó được phủ kín bởi một loại dây leo có lá nhỏ tròn, bò ngộ nghĩnh. Bức tường cao quá nên tôi không thấy gì bên trong, chỉ nhìn qua song cửa sân. Lúc đó tôi sợ bị người ta bắt vì tội nhìn lén nên đứng xớ rớ một lát rồi đi.


Từ đó, mỗi lần được nghỉ học, tôi không bỏ lỡ cơ hội để đi qua và nhìn vào “ngôi nhà có tiếng dương cầm của tôi”. Giai điệu du dương thường đúng vào giờ những chiều lang thang, tôi hình dung ra một chị dáng mảnh mai với mái tóc dài xõa nghiêng bên bờ vai, những ngón tay thon đang lướt nhẹ trên phím đàn từng đoạn nhạc say đắm lòng người của Chopin, Mozart, ... Hình ảnh sao mà đẹp và thánh thiện quá!


Trên đường đi học, lũ học trò chúng tôi hay cạo nhựa của những thân cây to trồng hai bên lề, vo lại thành hình tròn như quả banh. Nó hơi thơm và tưng lên cao như trái banh nỉ tennis để chơi đánh đũa. Không biết từ lúc nào tôi tự nhiên cũng có thói quen ngồi bên kia đường đối diện căn nhà đó, vo trái banh nhựa cây nhỏ trong tay, ngắm bức tường phủ dây leo, và nghe đàn. Có khi Lan Hương Vũ, bạn tôi, cũng chịu ngồi chơi với tôi một lát rồi cùng đạp xe về nhà. Nó rất tế nhị, chẳng bao giờ hỏi tôi chuyện gì xảy ra.


Một ngày kia, tiếng đàn đang réo rắc bỗng nhiên dừng lại, tôi bất chợt nhìn qua đường thì thấy một “anh” đang đứng ở ban-công hướng mắt về phía chúng tôi. Tôi chăm chú ngó hắn. Lạ quá! Có lẽ nào tiếng đàn lâu nay là của hắn? Còn cái chị tóc dài xinh đẹp của tôi đâu rồi? Hay hắn là đứa em? Nhiều câu hỏi lòng vòng trong đầu khiến tôi cứ ngồi im lặng mà mắt vẫn không rời hắn. Cuối cùng, hắn bỏ vào nhà.


Bị bắt gặp tại trận, tôi mắc cỡ không dám đi qua đường Bà Huyện Thanh Quan nữa. Hơn một tuần sau, không dằn được sự tò mò, tôi trở lại con đường cũ và tự trấn an “chắc là tình cờ thôi”.


Từ xa, tôi đã thấy bóng hắn đứng trên ban-công. Định rẽ qua hướng khác, nhưng lại nghĩ “tại sao phải tránh, đường mình mình đi chứ, nếu hắn còn đó thì tôi sẽ đạp xe đi thẳng, có sao!” Quả nhiên, hắn vẫn đứng đó. Thế là tôi đạp xe đi thẳng, không ngó lên nhưng tôi biết hắn đang nhìn theo.


Lần khác cũng vậy, nhưng hơi lạ... hình như hắn đang vẫy tay chào tôi. Ngó qua ngó lại, chẳng có ai khác ngoài tôi trên đường, đúng là hắn ngoắc mình rồi. Hơi ngần ngại nhưng tôi cũng vòng xe lại, chống một chân bên lề đường trước nhà hắn, ngó lên. Hắn ra hiệu đứng đợi, rồi xuất hiện cùng một cô bé trạc tuổi tôi bên cổng sắt lớn. Hắn hỏi rất tự nhiên:


- Em muốn vào nhà không? Đây là em anh.


Thì ra dân “Bắc Kỳ rốn”. Tôi chưa kịp trả lời thì cô bé đã mở cổng và mời:


- Vào đi, chúng mình học cùng trường, bồ lớp mấy?


Tôi nói lớp đệ lục. Cô bé học trên tôi một lớp. Nhìn cô ta dễ thương, tôi cũng bớt e dè. Mời lịch sự vậy sao không vào, sợ gì. Cái nhà này tôi quá quen rồi, thuộc lòng số nhà, trong sân trồng cây gì, hoa gì, cả cây dây leo bờ tường ngoài kia nữa, tôi chẳng biết tên gì nhưng đã quên hình như nghe ai đó hay là tôi tự nghĩ ra cho nó cái tên ”cây thằn lằn”. Sau này nhớ lại tôi thấy mình quá “gan”, dám ngang nhiên vào nhà người lạ. Ờ, mà thật ra mẹ tôi cũng thường nói tôi là một đứa gan lì mà.


Chị giúp việc bưng chè và nước ra mời anh em hắn và tôi. Hắn nói “em ăn đi, tự nhiên nhé!”. Xời, cái kiểu hắn nói làm tôi mất tự nhiên thì có. Chơi với lũ bạn gái, tôi tha hồ la hét vô tư chẳng để ý để tứ, sao ngồi trong ngôi nhà này tôi lọng cọng, lúng túng đến vậy? Hắn bưng chén chè ăn trước. Tôi cũng làm bộ nhẹ nhàng cầm muỗng. Chè hột sen đường phèn thơm dịu, ăn một muỗng mát cả người. Ăn hết chè mà chẳng ai nói câu nào. 


Nhắp ngụm nước, đôi mắt như biết cười nhìn tôi, hắn cất tiếng:


- Ngon không? 


- Ngon. 


Tôi trả lời cụt ngủn rồi tiếp tục im lặng, thầm mong nước da ngăm đen của mình không tố cáo khuôn mặt đang đỏ bừng vì ngượng.


Hắn thân thiện nói tiếp:


- Em gái anh cũng học buổi chiều, hôm nay được nghỉ.


Tôi nhìn cô bé, tự nhiên hơn:


- Ừ, nhà gần trường đi học sướng ha, chỉ cần đi bộ cũng không sợ trễ giờ.

 

- Bây giờ mình là bạn, rảnh đến nhà chơi. Anh tớ nói bồ hay ngồi bên kia, chờ mát mới về hả?


À, có chuyện này nữa. Giọng cô gái nhỏ nhẹ mà tôi nghe như lời buộc tội của quan tòa. Thì ra hắn theo dõi tôi chứ tôi đâu mắc tội dòm lén nhà hắn. Hừ! Lại còn dám kêu tôi là em. Chẳng qua hắn có em gái học hơn tôi thôi, còn khuôn mặt trắng trẻo thư sinh kia ai mà đoán tuổi hắn được. Nhưng phải công nhận hắn nghiêm trang, chững chạc hơn tôi nhiều. Tuy vậy, thời gian lâu sau tôi vẫn không gọi hắn bằng anh mà chỉ gọi tên xưng tui, giống như nói chuyện với lũ bạn gái của tôi vậy. Hắn thì khi em, lúc tên, và luôn xưng anh. Khoa ăn nói của tôi so với anh em hắn thật là quá tệ!


Quen hắn rồi, tôi không cần mất thì giờ ngồi chầu rìa bên đường nghe ké nhạc nữa. Hắn đàng hoàng mời tôi tới nhà nghe đàn vào mỗi chiều cuối tuần. Hắn luôn tự ra mở cổng và dẫn xe đạp tôi vào sân, vừa đi vừa hỏi han ân cần. Cử chỉ tự nhiên của hắn đủ làm lòng tôi rộn ràng sung sướng. Đôi khi tôi rủ em gái tôi đi theo, nhưng vài lần thì nó chán không thèm đi nữa. Nó nói “cái nhà gì buồn quá”, “mặt ông này lạnh lùng quá”, ... Nhận xét của nó làm tôi tức cười nhưng đâu cần để ý, theo tôi hắn chơi đàn tuyệt mà! Tôi không biết nhận xét hay dở ra sao, nhưng vì hắn có thể đàn cho tôi nghe bất cứ bản nhạc nào tôi yêu cầu nên tôi rất thích. Có hôm hắn hỏi tôi biết hát không. Tôi khoái chí muốn la lên vì được hỏi trúng tim đen mà trả lời rằng, không những tôi biết hát mà còn thích hát nữa, nhưng làm bộ thản nhiên “ờ, biết hát vài bài”.


Từ đó, ngoài việc được nghe hắn đàn, tôi còn hát cho hắn nghe. Ngồi bên cạnh, vừa hát vừa nhìn những ngón tay hắn gõ trên phím đàn, tôi quên hết thời gian. Hắn thích bài “When we were young”, cả lời việt “Khúc hát thanh xuân” và thường khen tôi hát bài này hay. Tôi cũng khen hắn chơi đàn giỏi. Hắn hứa sẽ xin phép bố mẹ cho hắn dạy tôi đàn khi mùa Hè tới.


- Thích không? Hắn mỉm cười hỏi tôi. 


Còn phải hỏi, tôi nghe mừng muốn ôm hắn mà rối rít cám ơn, nhưng lại cứ ngồi trơ người như con ngốc.


Đến khi đã chơi thân với hắn, tôi không còn “giữ kẽ”, kể chuyện lũ bạn quỷ sứ trong lớp cho hắn nghe để cùng cười. Hắn khá hóm hỉnh nhưng mặt lúc nào cũng nghiêm trang. Chắc học sinh trường Taberd nên vẻ ngoài giống cha xứ? Tôi chỉ nghe nói bố hắn là công chức, mẹ ở nhà. Còn bạn bè và cuộc sống của hắn thì tôi không biết. Em gái hắn cuối tuần đi học múa ba-lê nên chúng tôi ít khi gặp nhau. Trong nhà này ngoài anh em hắn, tôi chỉ quen chị giúp việc. Kệ, tính tôi cũng không thích hỏi chuyện gì người ta không muốn kể...


Rồi một ngày cuối tuần đáng ghét, không đáng nhớ lại xảy ra. Như thường lệ, tôi đến nhà hắn chơi. Khi hắn và tôi định lên lầu nghe nhạc thì chị giúp việc xuất hiện:


- Bà bảo cậu tiếp bạn ở phòng khách, bà đang nghỉ.


Chuyện gì nữa đây? Tôi trố mắt nhìn hắn. Còn hắn thì ngạc nhiên nhìn người giúp việc rồi nhìn qua tôi. Mặt hắn dài ra, cặp mắt lộ vẻ buồn bực nhưng thái độ vẫn bình thản. Hắn xin lỗi tôi như thể sợ mất lòng một người bạn quý. Lẽ ra tôi đã đi về ngay lúc đó, nhưng nhìn vẻ đau khổ của hắn tôi không nỡ. Ngồi im lặng một lúc, tôi chào hắn để về. Hắn dắt xe tôi ra cổng, nhẹ nhàng:


- Em đừng giận nhé! Có lẽ hôm nay mẹ anh mệt. Tuần sau em đến chơi.


Không đâu, hắn có lỗi gì đâu mà tôi giận chứ? Còn tuần sau à, không đời nào! Tôi muốn nói một câu gì đó cho bớt căng thẳng nhưng chỉ đặt nhẹ bàn tay mình lên bàn tay hắn đang cầm ghi-đông, nhỏ giọng “về nghen”. Hắn trả xe cho tôi. Lên xe, tôi đạp một mạch không quay đầu lại. Tôi sợ con tim nhỏ bé này sẽ yếu mềm khi nhìn hắn, tưởng tượng hắn như một con chim bị nhốt trong lồng, dù là chiếc lồng đẹp nhất, muốn bay nhảy ngoài bầu trời xanh kia cũng không thể. Vài tháng trước, tôi từng mơ ước có được căn biệt thự đầy hoa, có chiếc dương cầm, có xe đưa đón như anh em hắn. Bây giờ trái lại, thà tôi cứ là con nhỏ mồ côi mà có một cuộc sống thong dong tự tại còn hơn.


Đó cũng là ngày cuối cùng tôi gặp hắn. Tôi thật sự rất tiếc và buồn vì phải chia tay một người bạn mới dễ mến như hắn. Hết nuôi mộng được học piano rồi tôi ơi! Những ngày sắp tới chắc là phải khó khăn lắm mình mới dằn lòng không đi qua đoạn đường này, không lui tới căn nhà này. Tôi nghĩ thầm, nhưng mười ba tuổi, tự ái con nít ghê lắm! Mẹ tôi rất nghiêm khắc nên tôi hay để ý những lời nói của người lớn. Tôi không muốn đến nhà hắn nữa. Chẳng cần giải thích, hắn sẽ thừa thông minh để hiểu. Ở trường, em gái hắn vẫn thường đến tìm tôi lúc giờ ra chơi, nói chuyện vui vẻ, và trước khi về lớp không quên nhắc “nhớ cuối tuần đến nhà tớ chơi nhé, anh tớ hỏi đấy!” Nhưng, tôi đã nói là không đời nào rồi, cũng không suy nghĩ nhiều về chuyện đã qua. Có phải lỗi tại tôi?


Chúng tôi không gặp lại nhau, có thể là xa nhau mãi mãi, nhưng vẫn còn tiếng dương cầm đọng lại trong bài hát kỷ niệm mỗi khi chợt nhớ về thời hoa mộng, và hắn.


“One day when we were young, that wonderful morning in May. You told me, you loved me, when we were young one day...”


Hồ Thị Kim Trâm

Virginia, May 2014

Ý kiến bạn đọc
26/05/202019:18:53
Khách
Dễ thương như những truyện Tuổi Hoa của Sài Gòn ngày xưa!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.