Hôm nay,  

… Hà Nội Mấy Cửa Ô?

08/03/202114:52:00(Xem: 4461)

Trời mưa bong bóng phập phồng

Vú đi lấy chồng con ở với ai ?

  • Con ở với Bà Bà không có vú

  • Con ở với Chú, Chú là đàn ông !

  • (Ý chuyển từ ca dao Việt Nam)


  • “Tôi đứng bên này vỹ tuyến

Thương về năm cửa ô xưa


……..

Nhớ thương biết mấy cho vừa.” (Tạ Tỵ)


Năm cửa ô lịch sử bây giờ chỉ còn Ô Quan Chưởng, à không thêm cái “ô sin” nữa là hai.!

(ý tác giả Bình Phương)


Bạn Kh. Thân,

Nếu nói vậy cũng có thiệt thòi cho ô sin lắm đó, làm ô sin không phải dễ đâu, theo thiển nghĩ của tác giả: có nhiều ô sin dở mà cũng có nhiều ô sin hay, luật cân bằng dĩ nhiên là thế, cứ nghĩ ô sin là người giúp việc nhà đi.

Ở Việt Nam khi xưa “cũng có độ tôi cần ô sin mà sang đây, giá đắt quá không đủ tiền, dâu có dám đụng tới ô sin:

  • Có thứ ô sin chỉ dòm ngó, ăn hại

-    Có ô sin tận tâm với chủ, lo làm sao đi chợ tốn ít tiền mà lại có những bữa ăn ngon cho chủ. Có ô sin quản lý nhà cửa chủ sao cho an ninh, sạch sẽ, trong ngoài vững vàng. Cỡ như tuổi tôi bây giờ đi làm ô sin, hẳn là không chu đáo lắm đâu. Bây giờ, đúng ra là ra ngoại quốc, tôi mới nghe nói và hiểu lờ mờ từ “ô sin”. Hồi còn ở trong nước, cứ gọi là mướn một cô Sen hay một chị Hai giúp việc.

Xưa thật xưa nghe kể có nhiều người lão bộc giúp việc tận tâm với gia chủ, sống với chủ và chết cũng ở bên chủ luôn. Đó có lẽ là cái tập quán lâu đời… Khi xưa có học bài Công Dân Giáo Dục “bổn phận đối với gia nhân” và gần đây hơn chút xíu, thì mời bạn coi lại chương “Bàn việc nhà” trong tác phẩm “Nửa chừng xuân” của Khái Hưng:…

  • Tôi sắp bán nhà đấy, ông Hạnh ơi !

Ông lão hoảng hốt lo sợ:

  • Cô bán nhà ?

  • Phải, tôi bán, ông Hạnh ơi, đó cũng là một sự bất đắc dĩ. Ông tính ruộng vườn không còn, tiền của cũng không thì lấy gì mà chả bán nhà ?

  • Không được, việc ấy tôi xin can cô. Bán nhà đi thì còn đâu là nơi thờ tự cụ Tú, tôi theo cụ Tú từ ngày cụ còn giàu có, nhờ có cụ mà các cháu nhà tôi đều biết dăm ba chữ. Trước khi cụ mất, cụ dối giăng giao cho tôi trông nom Cô và cậu Huy. Việc ấy, tôi nhất định không để tùy ý Cô được !

  • Vậy ông để tôi chết đói sao ?

Người lão bộc cúi đầu ngẫm nghĩ rồi nói:

  • Thế này này, thằng Cả nhà tôi đi lính khố đỏ, tôi được làng cấp cho mấy mẫu ruộng, vậy cũng đủ gạo ăn, chưa cần bán nhà.

  • Mai cảm động, ứa nước mắt, gượng cười đáp lại:

  • Tôi cảm ơn tấm long tốt của ông, nhưng còn việc học của em Huy thì ông tính sao ?

… (trang 36, Nữa chừng xuân)


Ở cái thời kỳ quá xa xôi ấy, con người ta đạo đức, ăn ở với nhau đầy tình nghĩa, không lợi dụng qua
lại, bây giờ đổi đời, tốt tuy cũng có nhưng rất khó thấy. Tìm kim đáy biển may ra được.

Trên cái chặng đường dài gạch nối ấy của cá nhân, gia đình, xã hội và của cả lịch sử, thời gian, tôi mạo muội đi lùi, nhớ lại chuyện gia đình tôi:

Mẹ tôi mất sớm, rất sớm khi tôi được một tháng tuổi. Tháng ba năm đói Ất Dậu, 1945 thời kỳ gay go trong lịch sử cơm gạo việt Nam.

Nạn đói năm Ất Dậu đó lịch sử quy về hai nguyên nhân:

  • Nhật Bản bắt dân ta trồng đay thay cho lúa gạo.

  • Mỹ lấy cớ cản đường tiến quân thô bạo của Nhật, mang bom dội phá các đường xe lửa, đường bộ, đường thủy của cả nước ta.


Nạn đói 1945 làm hai triệu người chết oan nghiệt;

Nhưng mẹ tôi sinh tôi xong, ít ngày thì người chết vì bạo bệnh. Nhìn tôi khoắc khoải, đau ốm gầy gò bà Nội và bà Ngoại tôi bàn tính với nhau mượn vú, chẳng phải kiếm đâu xa: chị Gái ở mướn cho bà tôi đó, chị có chồng mà chồng chị đi lính xa, rồi mất, chị ở lại làng, sinh một con nhỏ, con còn bú, chẳng may đứa bé bị sài đẹn mất đi. Hai bà góp ý với chị hãy nuôi tôi như nuôi con chị, hai bà tôi vừa nuôi cơm chị vừa trả công, chị lại có tôi hơi giống con của chị thì cũng như con chị, hai bà tôi vừa nuôi cơm chị vừa trả công, chị lại có tôi hơi giống con chị thì cũng như có con… Bà tôi nói khéo như vậy, khiến chị ôm tôi vào lòng, và tôi ngửi thấy mùi sữa tôi sung sướng nằm yên!

Bà tôi đề nghị chị tắm rửa sạch sẽ, bà sắm cho chị đôi guốc mộc và ba bộ quần áo mới… dĩ nhiên chị được ăn nghon hơn và không phải làm việc nhà nữa.

Nói như vậy, chứ chị Gái vẫn là người có lòng tốt, ngoài thời giờ ấp ủ tôi, Chị vẫn phụ bà việc cơm nước, rơm rạ, cám bã nuôi heo, nói gần hơn chị như người trong gia đình.

Tôi lớn lên, quên ưu phiền ba tháng biết lẫy, bảy tháng biế bò, chín tháng lò dò biết đi. Bà dạy tôi gọi chị là Vú và Vú với tôi là Mẹ. Cô Út tôi kể lại là tôi vui ngay ít ngày sau khi có Vú và tôi chỉ biết có Vú thôi. Tối tối tôi ngủ với Vú. Ban ngày Vú làm việc trong bếp, tôi thơ thẩn ngoài sân chơi với mấy cái vỏ ngao, vỏ sò, vỏ hến quanh đâu đó vừa dòm chừng Vú.

Bà tôi được rảnh tay đi chợ Giành, chợ Hồi, cứ đội thúng lên đầu ra ngõ là bà tôi mừng rồi. Bà buôn vải, vải chéo go, vải lanh, vải sồi, vải láng, bà chạy chợ nọ chợ kia như thoi.

Còn Bà Ngoại tôi thì từ thuở con gái bà làm nghề nuôi tằm, dệt tơ và quay tơ, làm lụa; nhưng từ khi con gái chết bất ngờ, khi nghe chim tu hú kêu nhau vang ngoài đồng và những bông lúa vàng chín rũ, nặng trĩu cành thì hóa ra mẹ tôi mất. Nghịch cảnh! Bà Ngoại cho là đổ nghiệp! Và bà chuyển nghề, bà không trồng dâu, nuôi tằm nữa mà bà mua đất trồng bông vải, kéo sợi và dệt lách cách. Xung quanh nhà Ngoại phơi đầy khung căng vải nhuộm, vỏ già hay củ nâu mùi ngai ngái. Bên cạnh là cái cổng xây vòng cung phủ đầy hoa đậu ván màu tim tím đong đưa…

Y hệt ở đây và bây giờ, mỗi khi đi ngang nhà ông Tây nào có cây hoa Glycine trổ bông là lòng tôi trùng xuống, chìm vào dĩ vãng Bắc Việt xa xôi.

Đúng, tất cả xa xôi tồi, và cứ theo lời cô Út tôi kể, khi tôi được ba tuổi Vú tôi cai sữa cho tôi và Vú tôi đi lấy chồng. Cha mẹ ơi, buồn ơi là buồn!! Gọi là buồn so! Buồn một thuở Thái Bình có ai hiểu nổi? Bà tôi giận Vú và hạ quyết tâm phen này không cho Vú gặp mặt tôi nữa. Oái oăm thay, mỗi buổi trưa, mặt trời đứng bóng, tôi lại lăng xăng chạy dọc theo cái dậu cây găng bọc một bên hông vườn, tôi chờ Vú đi chợ về. Khi nào cũng vậy, Vú không quên liệng cho tôi một nắm bỏng (cốm) rang thơm và hơi ngọt y như mùi sữa mẹ. Vú ném nhẹ tay, tôi quen và bắt gọn, không hụt bao giờ. Tôi và Vú có rất nhiều cuộc hẹn như thế… qua hàng rào, Vú xoa đầu tôi trìu mến, còn tôi, tôi nhìn mãi nụ cười đôn hậu chan hòa của Vú!

Cho đến một ngày bà tôi hiểu, bà chạy ra trước tôi và bà nhanh tay lượm được nắm cốm, bà ném trả lại và dắt tay tôi vô nhà, bà lau mặt cho tôi và ân cần cho tôi một cái bắp nếp mới nướng còn âm ấm. Tôi vùng vằng giận dỗi, ngồi bệt xuống chiếu manh, bà nói gì đó lảm nhảm mà tôi không thèm nghe, tôi cố sức nhoài bàn chân nhỏ bé đẩy ra xa, thật ra xa cái bắp ngô bà cho, cứ y tôi là tôi muốn thẩy nó cho con Cún đang chờ. Tôi không them bắp, tôi chỉ muốn nắm cốm mềm thơm của Vú tôi thôi.

Buổi tối ngủ cạnh Bà, Bà một tay quạt, một tay xoa xoa cái lưng tôi đầy rôm sẩy, tôi vẫn còn hờn, tôi nắm được bàn tay khẳng khiu của Bà, đưa lên cao, sờ trong bóng tối, cái bàn tay Bà cứng đơ, nhăn nheo quá, khô khốc không mùi vị. Tôi trào nước mắt, tôi thèm hai bàn tay mềm mại, mát rượi và êm như lụa của Vú, Bà không biết tôi khóc, Bà cứ quạt đều đều và cứ xoa xoa… thưa dần, thưa dần cho đến lúc Bà ngủ quên, cái quạt rơi xuống cái bạch trên mình tôi, tôi chụp ngay và thảy lẹ ra ngoài mùng… Thời gian vẫn trôi nhanh về đều đều và mình không có một phương tioện nào đặng đuổi theo hay nắm bắt.

Ở thơi điểm năm 1950 lịch sử bấy giờ người pháp ra sức tấn công Bắc Việt, họ quyết tâm bình định vùng thuộc địa, lập đồn bót bao quanh các nơi đã chiếm được, rồi cứ lan dần ra (gọi là vùng tề). Quê chúng tôi Thái Bình, Nam Định.. làng nào cũng có chùa thờ Phật và có đình thở Thành Hoàng; Chùa thì người pháp chưa tiện để mắt tới nhưng Đình có nhiều cây cao bóng cả um tùm như mít, muỗm, những cây gạo rậm rạp, họ muốn khai quang không cho các ông Việt Minh tụ họp.



Có một hôm trời làm mưa to gió bão, thì đúng lúc ô bi đại bác từ bót Diêm Điềncâu lên, đâu không trúng lại trúng vô một góc đình làng tôi, làng Nghĩa Chỉ Hạ, Thụy Anh, Thái Bình. Những ngày tang thương vừa tạm nguôi, các cụ bô lão cho hạ mấy cây gạo và mấy cây nhãn già lấy cây gỗ sửa đình.

Những ngày tháng tiếp theo, đúng là “quân hồi vô phèng”, một số người khác lấy cớ, lấy cây làm vật cản đường tiến của giặc pháp vô làng, họ đốn hạ nốt cây nhãn còn lại: uổng quá, còn đâu là con đường làng rộng thênh thang, một bên là hang tre trúc rợp bóng, một bên là những cây nhãn lồng, mùa nhãn sắp đến, hoa vàng rực rỡ, hàng nhãn bị chặt trụi đi rồi, còn lại chỉ một bên hàng tre chỏng gộng đứng vô duyên một mình, ngày đêm than vãn kẻo kẹt, chúng than vãn con người, chúng đang thì thầm tiếc nuối, còn đâu

“Trúc biếc xanh xanh là Pháp Thân

Hoa vàng rợp rợp là Bát Nhả” (Thơ Thiền)

Chúng oán than gì nữa?

Chúng cay cú cái chiến thuật “đồn bót phòng thủ châu thổ sông Hồng của De Lattre de Tassigny năm 1950-1951 làm rối beng các tỉnh vùng châu thổ, một thuở yên bình đã mất.

Mảnh đất Việt Nam rung chuyển vì chiến tranh, chúng ta là những hạt cát lăn qua lăn lại trong cái tổng thể chao đảo đó.

Rồi cha tôi từ Phú Thọ trở về làng, thấy tôi quá bạc phước, có mẹ mẹ chết, có vú vú đi lấy chồng, có bà lần lượt bà Nội, bà Ngoại cũng ra đi; nhân dịp có chuyến di cư vĩ đại năm 1954-1955 Cha tôi mang tôi vào Nam, đi xa thật xa, rời bỏ hẳn quê hương ngút ngàn… có đầy hoa đậu ván tim tím, có những cây hoa soan ra trái từng chùm vàng đậm y như những chùm nho.

Vào Sài Gòn, tôi sống ở đó, vẫn nghe ì ùng súng đạn nổ khắp bốn vùng chiến thuật quê hương miền nam, vì 20 năm liên tiếp, kể từ sau hiệp định Genève, cộng sản không ngừng tấn công lấn chiếm.

Năm 1975 một cuộc đổi đời không tiền khoáng hậu xảy ra và bạn cũng thấy đó, chúng ta phải rời bỏ quê hương lánh nạn độc tài để đi tìm Tự Do.

Với hành trình biệt xứ này, bạn và chúng tôi kẻ ở Mỹ, người ở Pháp, Đức, Úc, Gia Nã Đại, Tân Tây Lan… rải rác khắp năm châu, khắp mặt địa cầu.

Dĩ nhiên là hai bàn tay bắt vào cuộc sống mới, chúng ta lo tìm mưu sinh cơm áo gạo tiền… nhưng có lúc nào mà chúng ta dứt điểm quên được Việt Nam quê hương ta ?

Nơi đó có gì đã xẩy ra ?

Bạn đã thấy và tất cả chúng ta đã thấy: bản chất lưu manh và hiện tượng cộng sản xô bồ, làm sao không thấy được dù là người dửng dưng nhất. Một người bạn hơi dửng dưng hay làm bộ không quan tâm đến, khi tàu Trung Cộng mang dàn khoan HD 981 xâm nhập vào hải phận Việt Nam đã bảo tôi rằng: “kệ nó, bây giờ chúng nó có đổ săng dầu phóng hỏa luôn cái biển đông đi, tôi cũng không thèm để ý tới.

Nhưng rồi bạn ấy cũng ra vô internet coi, để xem nay Việt Cộng làm gì, mai Trung Cộng làm gì, mưu mô trên mảnh đất cha ông mình.

  • Chúng nó đang làm gì nhỉ ? Chúng nó đang đàn áp người dân để lấy đất bán chia nhau tiền.

  • Chúng nó đang nhận chìm các quyền tự do căn bản của con người. Chúng nó đang làm thoái hóa xã hội Việt Nam, về mọi phương diện… nhất là đạo đức cổ truyền.

  • Chúng nó đã và đang dâng đất của tổ tiên cho tàu và vân vân…


Nhưng đến đâu rồi bạn nhỉ, Kh. thân mến tôi điện đến bạn và tôi đang viết và hình như bạn vừa điện thoại cho tôi ? Bạn vừa kể về chuyến đi Việt Nam của bạn. Ô, may phước cho bạn quá, bạn đã gặp lại Vú nuôi ngày nhỏ của bạn ư ? Sung sướng quá, tôi xin chia vui với bạn và cám ơn vì bạn luôn theo rõi ngòi bút của tôi. Bạn là một trongnhững động lực thúc đẩy khuyến khích tôi đủng đỉnh bước đi, lúc ẩn lúc hiện, lúc nhặt lúc khoan, bạn giúp tôi bước đi, không ngừng, quay phải rồi quay trái, bước tiến rồi bước lùi, lùi rồi tiến; bây giờ, tôi nên quẹo ngả nào? A tôi thấy lối đi rồi! 

Từ kỷ niệm của bạn, tôi mường tượng được hết cả hoài niệm của tôi một cách chu đáo, trước mắt tôi, đang hiện ra cả một khung trời tuổi mộng mơ, ấu thơ, rất êm đềm của Vú nuôi tôi, và tôi. Cả hai như đang kết vào nhau, quấn quit rồi lại rời ra, tôi suy nghĩ và tôi có dịp so sánh…

Đúng, bạn ơi, bà Vú tôi cũng là một ô sin mà ngày xửa ngày xưa đó, người ta chưa có cái từ ngữ đó để gọi.

Bà ô sin vô vàn yêu quí, thiêng liêng của tôi, may mắn cho tôi và cũng là may mắn cho bà, ở vào cái thời điểm bà xuất hiện, con người xã hội còn có đạo đức, có Tự Do… người có thể ôm tôi bằng vòng tay thân ái và khi xong duyên nợ, người nhẹ nhàng buông tôi ra… mỉm cười nhìn tôi tự bước đi như nhìn một thành quả người đã trồng tỉa gặt hái xong xuôi.

Ngày nay hả, ô sin có nhiều điểm khác. Bây giờ trong sự việc đi ở mướn, vú em, ô sin giúp việc nhà nhất cử nhất động kê cả việc “xuất khẩu lao động” thì con người trong cuộc, tổ chức hay nạn nhân  đều là vô cùng khổ khác xa lắm!

Vú à, con nghĩ là con người đang lội ngược về thời tiền sử hay cả trước đó nữa, dã man hơn nhiều như việc mua bán nô lệ page 11 trong “paix entre les religions” của hòa thượng Chandaratana, người Theravada thì “việc buôn bán nô lệ con người như con vật, bắt nguồn do người Âu châu tổ chức quy mô từ thế kỷ 15 dến giữa thế kỷ 19, khi họ đóng tàu bè đi khám phá ra những vùng đất mới và những con người mới. Mới đây không phải… không phải người Âu châu, họ tranh giành quyền lực và gây chiến, chiến tranh bắt đầu từ đó”…

Có nhu cầu thì có sáng tạo, có phát triển, sau đó có hậu quả, hậu quả là mấy cuộc thế chiến tương tàn với vũ khí nguyên tử đã xảy ra. Dù là vì sao ? Vì sự tiến bộ lệch lạc kỹ thuật khoa học và nhu cầu chiếm đoạt quá cao mà khiếm khuyết về tiến bộ đạo đức và khiếm khuyết về sự quân bình của mỗi con người với mỗi con người, con người không biết tôn trọng nhau, không biết yêu mến nhân phẩm của nhau… Nhân số địa cầu càng tăng, sự chênh lệch đó càng cao vì người ta giành nhau cái ăn, cái ở, quyền lợi!

Bạn ơi, cứ thế mà đi ngược dòng và chúng ta sẽ ở trong cảnh dằng xé nhau cái ăn, cái ở và cái quyền lực ấy thì chế độ “xuất khẩu lao động” là con người bán con người và con người tự bán mình với kỹ thuật còn tinh vi và khốn khổ gấp vạn lần chế độ nô lệ ngày xưa.

Người đi xuất khẩu được trả lương ư ? – Đó cũng là một kỹ thuật tinh xảo để che đậy.

Bạn bung ra kỷ luật để bảo vệ quyền cơ bản của xuất khẩu lao động ư ? – Đó là chỉ là ma thuật của những bàn tay sắt bọc nhung.

Khi một đứa bé Việt Nam 8 tuổi được xuất khẩu sang Anh Quốc tưới cần sa ma túy, nó hỏi: những cây gì đây ? – Đó là chuyện người lớn, không nên biết tới ! Rồi 12 tuổi nó bị trả về Việt Nam thì nó có cái quyền gì ngoài cái quyền ngu ngơ không hiểu những người lớn ở chung quanh họ muốn làm gì nó.

Còn rất nhiều vô vàn thí dụ khác mà tôi không kể vì bạn đã đã thấy rõ qua báo chí, truyền thanh, truyền hình… như 39 Nngười Việt Nam chết oan mạng trong xe đông lạnh ở Anh vv và vv…


Vú ơi, Vú có biết là Vú còn hơn chán vạn người ta và con vẫn yêu mến Vú vô cùng vì Vú biết và được thể hiện cái bản ngã thiêng liêng, trước Thượng Đế mọi chúng ta đều bình đẳng… trong đạo Phật thì rộng hơn: mọi vật đều bình đẳng đấy Vú ạ ! Mọi con vật con người đều bình đẳng!

Vú ơi, chưa bao giờ con thấy con người lại sợ con người và con người thù hận con người như ngày hôm nay ! Tại có thể vậy mà dịch bệnh sinh ra toàn cầu ? Nguy hiểm quá…

Con muốn đi ngược thời gian trở về với Vú. Lời cầu xin này xem ra ngớ ngẫn hả bạn ? Vậy thì, bạn ơi, bạn và tôi, chúng ta hãy cùng nhau kính lời, kêu mời, thỉnh gọi các đấng quyền năng, các đấng Vị tha, Từ bi, Bác ái, các đấng Lòng lành vô cùng cúi xuống nhìn chúng ta là nhân loại ân cần một lần nữa… A Di Đà Phật!


  • Từ Paris và toàn thế giới đang mùa dịch bệnh

  • Mùa đông 2021 Tết Tân Sữu

  • Con luôn niệm ân thầy Thích Pháp Hòa (Canada)

  • Con luôn niệm ân thầy Thích Minh Thiền (Việt Nam)

(Chúc Thanh)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.