Hôm nay,  

Hành Hương

16/04/202116:01:00(Xem: 3534)

 

HANH HUONG TAY TANG
Người hành hương Tây Tạng lạy Phật. (www.pixabay.com)

Ánh lửa bập bùng từ bếp lò giữa nhà tỏa hơi ấm và đủ soi nhập nhoạng mặt người, lửa vừa để nấu ăn và sưởi ấm. Mùi trà sữa trâu lùn thơm phưng phức, pha lẫn chút khét của ngọn đèn bơ vừa tắt. Tenzin Gyatso thì thầm

- Chúng ta vô ý quá, đèn cạn bơ mà chúng ta không châm thêm vào

Chị Zesay lập tức đứng dậy lấy bình đựng bơ chế vào ngọn đèn, ngọn lửa lại cháy lên, ánh sáng lung linh hòa với ánh lửa từ bếp lò in bóng những thành viên trong gia đình Tenzin lên vách tường. Tenzin hỏi ông chú

- Chú có muốn thêm tí trà sữa nữa không?

Ông Tenzin Choejor gật đầu và xìa cái bát ra, Tenzin rót một ít trà sữa nóng hổi cho ông. Tenzin Choejor đã bảy mươi rồi, tuy còn minh mẫn nhưng hai năm nay sức khỏe của ông đã suy nhiều, hàm răng giờ chỉ còn loi choi vài cái thôi, trông ông móm sọm. Ông đã tâm sự với Tenzin Gyatso về ước nguyện hành hương về Potola và Kailash. Tenzin Gyatso hoàn toàn ủng hộ ông, anh đã đau lòng và ân hận khi cha anh qua đời mà ước nguyện hành hương chưa kịp thực hiện. Mấy năm về trước, ông Tenzin Rabga đã sửa soạn lương thực, áo quần, lều trại… để sang xuân là đi hành hương, Sự đời chuyển biến bất ngờ, nhiều thanh niên tự thiêu phản đối sự cai trị hà khắc của Trung cộng, dẫn đến Trung Cộng thiết quân luật, cấm ngặt mọi việc di chuyển về Potola. Đến khi tình hình lắng dịu thì ông bất ngờ qua đời. Bởi vậy Tenzin Gyatso quyết tâm phải khởi hành vào mùa xuân này. Anh đã cắt đặt mọi việc cho những người ở lại giữ nhà.

Mùa đông tuyết đổ liên tục, rét thấu xương, dù mọi người đã sống chết ở đây bao đời rồi. Nhà Tenzin Gyatso vốn khá giả, ngôi nhà xây bằng đá tảng, đất nện và cây gỗ… nó giữ ấm rất tốt cho mọi người bên trong, ngôi nhà này là mơ ước của bao nhiêu người. Có tiếng gõ cửa, Tenzin ra mở thì thấy Kunga Dorjee, sau khi uống bát trà sữa nóng, anh ta nói

- Nghe nói bạn và gia đình sẽ đi hành hương vào mùa xuân này, tôi có thể đi chung với các bạn?

Tenzin Gyatso và mọi người rất vui mừng

- Còn gì quý hơn, chúng tôi thật may mắn khi có bạn cùng đi chung.

Kunga Dorjee có xe máy  kéo, gắn thêm cái rờ mọt vào nữa thì tha hồ chất dụng cụ đi đường, lát sau vợ chồng Thupstan Rinchen và hai cô em vợ đến, họ tỏ ý  muốn được đi hành hương chung, cả hai cũng dành dụm được một số tiền và mấy bao bột khoai tây để ăn dọc đường. Gió thổi ù ù, tuyết bay mù mịt, lại có tiếng gõ cửa ngập ngừng. Tenzin lại mở cửa thì thấy Rigzin Zigme, anh đồ tể thường xẻ thịt trâu lùn. Anh ta say khướt, dáng điệu lảo đảo như muốn té. Tenzin vội dìu anh vào trong, rót cho anh ta bát trà sữa nóng. Chị Zesay trách anh ta

- Anh cứ say khướt thế này, làm được đồng nào uống hết thì còn đâu giúp vợ con?

Rigzin Zigme không dám nhìn ai, anh ta nhìn vào bếp lửa, ánh mắt buồn vô hạn, lát sau anh chậm rãi nói

- Tôi là đồ tể, tôi xả thịt trâu lùn nhiều lắm. Tôi không oán ghét gì chúng nhưng tôi không xẻ thịt thì người làng lấy gì ăn? Trâu lùn với chúng ta cũng là một thành viên trong gia đình, nhưng không có thịt và sữa trâu lùn thì chúng ta sẽ chết đói; không có da trâu lùn thì chúng ta sẽ chết rét. Tôi rất sợ khi nghĩ đến hậu quả giết trâu lùn, vì vậy sau mỗi lần xả thịt chúng là tôi phải say để quên đi nỗi sợ này, khổ nỗi khi cơn say qua đi thì tôi càng buồn và sợ hơn. Tôi nghe Tenzin sẽ đi hành hương vào mùa xuân tới, có thể cho tôi đi hành hương chung? Tôi muốn hành hương kính lễ đức Phật để giải bớt cái nghiệp của tôi!

Zesay và mọi người bùi ngùi thương cho Rigzin Zigme. Tenzin đến ôm vai anh ta

- Nếu anh muốn đi hành hương thì hãy chuẩn bị lương thực và sắp xếp việc nhà đi, đầu xuân chúng ta khởi hành. Không có việc gì quan trọng hơn việc hành hương. Đức Phật sẽ gia hộ cho anh, nghiệp xấu của anh nhất định sẽ giảm bớt!

Rigzin Zigme dường như xúc động mạnh, khóe mắt anh ta ươn ướt, anh ta muốn nói gì đấy nhưng không tìm ra lời nên cứ ngắc ngứ. Tenzin hiểu nên vỗ vỗ vai anh ta

- Anh đừng quá sầu bi và đau khổ như thế, anh rước cái nghiệp sát cho chúng tôi, không có anh thì chúng tôi biết làm sao đây? Chúng tôi cùng cộng nghiệp chung với anh. Chúng ta vốn có nhân duyên từ đời trước nên giờ mới gặp nhau, tương lai chắc chắn chúng ta lại còn gặp nhau nữa. Nghiệp sát của anh là bất đắc dĩ, tuy xả thịt trâu lùn nhưng nuôi sống bao nhiêu người khác. Anh thành tâm sám hối như thế là tốt lắm, chuyến hành hương này sẽ tăng tín tâm tam bảo và giải bớt nghiệp cho anh.

Chúng ta không chỉ đi chung một đoạn đường hành hương hay một quãng đường đời, chúng ta còn đi chung với nhau nhiều kiếp nữa, khi mà chúng ta còn tiếp tục tái sanh.

Rigzin Zigme cảm ơn và trông anh ta cảm động lắm. Mọi người còn đang bàn tán việc chuẩn bị cho cuộc hành hương, cửa lại có tiếng gõ. Chị Zesay ra mở thì thấy ba cha con nhà Thubten Kelsang, anh ta dẫn hai thằng con trai đến xin Tenzin cho hai đứa đi hành hương. Tenzin rất hoan hỷ bảo

- Càng thêm người thì chúng ta càng có sức để giúp đỡ nhau trên đường đi, thêm tay thì thêm lực để tương trợ nhau, đức Phật sẽ hoan hỷ gia hộ cho chúng ta

Chị Zesay rót ba bát trà sữa cho cha con Thub Kelsang. Anh ta cảm ơn rồi tâm sự

- Nhà tôi ăn ở hiền lành, cả đời chẳng hại ai bao giờ, sao tai họa cứ đổ lên đầu chúng tôi. Năm kia vợ tôi sanh khó mà chết, rồi hai đứa em tôi bị tai nạn mà chết, phải chăng nghiệp của tôi quá nặng? Tôi không đi hành hương chuyến này được, tôi phải chăm sóc mẹ, bà ấy quá già và còn những người khác cũng cần được quan tâm. Tôi gởi hai thằng con đi theo anh, cảm ơn anh rất nhiều Tenzin

Tenzin an ủi anh

- Ai cũng có cái nghiệp của mình, mỗi người mỗi nghiệp, chúng ta cũng vì nghiệp mà gặp nhau đây. Chúng ta cầu nguyện đức Phật, đức Liên Hoa Sanh gia hộ cho chúng ta. Hành hương là một cách tốt để giải nghiệp, để tỏ lòng tôn kính đức Phật. Anh không đi được lần này thì lần khác vậy!

Thế là đoàn hành hương lên đến mười ba người, Tenzin phân công và cắt đặt việc cho các thành viên, hẹn ngày đầu của mùa xuân sẽ khởi hành. 

Mùa xuân đến, tuyết vẫn còn trắng giăng khắp làng Mankang, một vài loài hoa xuân sớm đã nở. Đoàn hành hương khởi hành lên đường, ông Tenzin Choejor nét mặt hân hoan, ánh mắt tràn đầy niềm tin và nhiệt huyết. Mặc dù  khuôn mặt nhăn nheo vì sự tàn phá của thời gian, của bức xạ mặt trời trên xứ tuyết. Ông bắt đầu thực hiện những bước chân đầu tiên của giấc mơ lớn nhất đời người. Đã sinh ra trên xứ tuyết này, ai cũng ước nguyện một lần trong đời hành hương về Lhasa và Kailash. Cả làng Mangkang ra vẫy tay chào đoàn hànhn hương, ai cũng quay luân xa và trì chú chúc đoàn hành hương vượt qua mọi gian khó để hoàn thành cuộc hành hương. Tenzin Gyatso vui lây với cái vui mãn nguyện của ông chú, tuy vậy trong lòng anh cũng có chút ưu tư, Anh lo không biết ông chú có đủ sức chịu đựng cuộc hành hành hương này không, hơn hai ngàn dặm chứ ít gì, vô số gian khổ và những bất ngờ không thể đoán trước được. Ngoài ông chú ra, anh còn lo cho vợ anh, Zesay có bầu đã sáu tháng rồi, không biết sức khỏe cô ấy chịu đựng được bao lâu đây? Anh cũng như những người Tạng xứ này, vẫn tin rằng được sanh ra hay chết trên đường hành hương là một phước báu lớn, một sự gia hộ phi thường của đức Phật, đó là một điều mơ ước của bao nhiêu người, không phải ai cũng có được cái may mắn ấy. Tuy nhiên Tenzin cũng là một con người, có đủ thất tình lục dục, lòng anh không thể lạnh như tuyết sơn, trái tim anh vẫn nồng ấm như bếp lò giữa nhà. 

Ngày đầu khởi hành từ làng Mangkang, đoàn người vừa đi vừa lạy được hai mươi dặm, cứ mỗi bảy bước là một lạy, mọi người lạy dài xuống đất, để cả đầu, mình tay chân chạm đất. Họ lạy với tất cả tâm thành tôn kính đức Phật. Chị Zesay có bầu nhưng vẫn lạy như mọi người, cô bé Ceba mới mười hai tuổi, con gái của Tenzin cũng lạy như mọi người. Riêng ông chú Tenzin Choejor thì quay luân xa và liên tục lấy những viên đá hai bên vệ đường để chồng lên làm thành những mani đôi. Khi cả đoàn nghỉ chân bên vệ đường, mọi người uống trà sữa, ăn bánh bột khoai tây và những miếng khô trâu lùn. Tenzin bóp hai chân Zesay

- Em lượng sức mình, nếu mệt quá thì  đi bộ không lạy cũng được. Đức Phật vẫn biết tâm thành của em, vẫn gia hộ em

Zesay nhìn Tenzin đầy yêu thương

- Em không sao, em sẽ lạy cho đến bước cuối của cuộc hành hương này! Đời người có ý nghĩa gì đâu, sống chết vô thường, giả sử có chết trên đường hành hương ấy lại là phước báu lớn.

Cô bé Ceba chen vào giữa cuộc nói chuyện của hai người

- Con cũng lạy  với ông và với ba mẹ.

Buổi trà sữa ăn tối cũng xong, mọi người rì rầm đọc kinh và niệm chú Om Ma Ni Padme Hum, cầu Phật gia hộ cho các thành viên đủ sức và kiên cố chí nguyện trên đường hành hương, sau nữa cầu đức Phật gia hộ cho tất cả chúng sanh. Ông chú Tenzin Choejor quay luân xa không ngừng nghỉ vừa lần chuỗi. Tiếng tụng niệm trong căn lều cứ như sóng âm lan tỏa vào đồng không mông quạnh, lời cầu nguyện như bay lên hướng về tuyết sơn vĩnh cửu.

Trời hừng đông, đường chân trời ửng hồng trên nền tuyết trắng tinh khôi. Mọi người thức dậy, Zesay nhóm lửa pha trà sữa và chuẩn bị bột khoai tây cho mọi người ăn sáng. Thảo nguyên sớm mai yên ả thanh bình và tịch lặng đến độ tưởng chừng có thể nghe được nhịp tim của người bên cạnh. Có lẽ ở trong cái môi trường thanh vắng và lòng người thanh tịnh thuần khiết như thế nên tâm ý của mọi người dễ lan tỏa và dễ gặp sự đồng điệu. Sau bữa sáng, tiếng xe máy kéo phành phạch nổ phá vỡ sự tịch tĩnh ngàn đời của thảo nguyên. Xe máy kéo chở vật dụng bò sau lưng những con người thành tâm nhiệt huyết đang bước và lạy ở phía trước. Nhờ có xe máy kéo mà mọi người đỡ khuân vác, những con trâu lùn cũng không phải bị chất cả đống đồ trên lưng, Đoàn hànnh hương đến một bờ tràn, nước chảy qua đường. Mọi người dừng lại phân vân một tí. Anh Thubten Kelsang lạy dài xuống đất như không nhận biết nước đang chảy qua đường, chỉ có thế, lập tức cả đoàn hành hương cùng lạy qua. Không biết dưới gầm trời này còn có dân tộc nào thành tâm tôn kính đức Phật hơn người Tạng? Không biết có xứ sở nào mà con người nhẫn nhục, nhẫn nại và tâm kiên cố năm vóc gieo sát đất như người xứ này? Tín tâm người Tạng như kim cang bất hoại, vững như đá núi Kailash. Tấm lòng họ đối với đức Phật thanh tịnh tinh khiết như tuyết sơn, như băng vĩnh cửu trên đỉnh Kailash. Con đường hướng về Potola càng lúc càng cao dần, con đường ngoằn nghèo khi thì men theo sườn núi, lúc thì chạy dài ngút tầm mắt giữa bình nguyên, con đường như bất tận không thấy điểm đầu hay điểm cuối. Sau một tháng đi và lạy, đoàn người đã lên đến độ cao Ba ngàn rưỡi mét. Mọi người vẫn nhẫn nại, cần mẫn đi và lạy, già như cụ Tenzin Choejor, trẻ như cô bé Ceba, thậm chí đến chưa chào đời, còn nằm trong bụng mẹ cũng lạy với mẹ mình… Mọi người toàn tâm toàn ý vừa niệm chú đại minh Om Ma Ni Pad Me Hum vừa miệt mài lạy trên đường, thỉnh thoảng một vài chiếc xe hàng chạy vụt qua, chỉ phút chốc là mất hút ở đường chân trời, trả lại sự thanh vắng cho đất trời. Đoàn hành hương cứ thế từng ngày đi tới, ngày khỏe thì hai mươi dặm, ngày mệt thì mười bảy dặm. Ngày đi và lạy, đêm dựng lều nghỉ chân. Tenzin Gyatso đã thay đến đôi giày thứ ba, hai mảnh gỗ để chắp lạy cũng đã thay miếng mới. Zesay thay tấm tạp dề bằng da mới. Thấm thoát đã tháng thứ hai, rồi tháng thứ ba, lúc bấy giờ đã lên đến độ cao bốn ngàn hai mét. Một hôm vào lúc nửa đêm. Zesay trở dạ, Tenzin và Kunga Dorjee lái xe máy kéo chở Zesay vào ngôi làng Manali, cách đó mấy dặm đường. Người làng chỉ đến nhà bà mụ KesangDolma Tamang, bà lập tức giúp đỡ Zesay trong cơn vượt cạn. Trời lạnh thấu xương mà Zesay mồ hôi ướt cả mặt mày, cô ấy đang trải qua cơn đau kinh khủng, thai nhi ra phân nửa, cô ta cảm giác như xé thịt phân thây, cái đau đến tận tim gan, Bà mụ hối thúc

- Cố lên, cố chút nữa, hãy rặn mạnh hơn tí nữa… Cô mà chậm chạp thì đứa trẻ sẽ chết ngạt mất thôi!

Tenzin Gyatso ôm đầu vợ an ủi, bà mụ kéo thai nhi, một người đàn bà khác ấn mạnh phần trên của bụng Zesay. Chừng mươi phút nữa thì thai nhi lọt hẳn ra ngoài, bà mụ lau chùi và cắt rốn, nó khóe oe oe giữa đêm trường tịch mịch của tuyết sơn. Nó khóc để chào đời, để bước vào cuộc sống đầy hệ lụy của chốn hồng trần. Nó đã được sanh ra trên đường hành hương về thánh tích, thế gian này dễ mấy ai được như nó. Zesay nghe nói con trai, chị ta nhoẻn miệng cười rồi lả đi vì kiệt sức. Nghỉ ba ngày ở nhà bà mụ, Tenzin lại đưa vợ về lại trại, nơi đoàn hành hương đang chờ đợi. Mọi người tranh nhau ẵm hài nhi, ai cũng hoan hỷ và tin chắc đây là phước báu lớn của thằng bé. Ông Tenzin Choejor hỏi Tenzin Gyatso đã đặt tên cho thằng bé chưa, anh ta bảo chưa kịp nghĩ ra, Ông Tenzin Choejor bèn đặt cho nó tên Tenzin Dingzi Dengda, nghĩa là cầu chúc hy vọng cuộc đời thằng bé sẽ hạnh phúc và trường thọ. Ông bảo

- Thằng bé này có phước báo lớn lắm, sau này lớn lên sẽ làm Lạt Ma  hoặc Guru nếu nó xuất gia, Bằng không nó sẽ là một thủ lĩnh có uy tín và quyền lực.

Mọi người lại quây quần đọc kinh chúc phúc cho thằng bé. Đoàn nghỉ lại thêm bảy ngày nữa rồi mới lên đường. Ai cũng bảo Zesay hãy ngồi trên xe máy kéo vì mới sanh dậy nhưng Zesay vẫn đi và lạy, quả thật đức tin có sức mạnh hơn ta tưởng, có năng lực kỳ diệu không thể suy luận hay nghĩ bàn. Zesay vừa sanh bảy ngày, không hiểu sức lực từ đâu mà cô ta vẫn lạy như tất cả mọi người, cô không để lạc dù chỉ là một nhịp. Đức Phật, đức Liên Hoa Sanh gia hộ, vẫn ở bên mọi người trong từng phút giây. 

Một hôm trên con đường vạn dặm ấy, một chiếc xe Pick up chạy phía sau, tài xế bất cẩn húc vào đuôi xe máy kéo, làm nó lật bên vệ đường, chiếc xe gãy trục nhưng không ai bị thương, vì mọi người vẫn lạy trên đường. Anh tài xế người Hán, anh ta xin lỗi rối rít nhưng rồi bỏ đi mà chẳng bồi thường cho những thiệt hại mà anh ta gây ra. Anh Kunga Dorjee cũng chẳng phàn nàn hay bực mình vì chiếc xe bị gãy trục. Cả đoàn hành hương cũng chẳng ai bực mình. Mọi người bình thản chấp nhận mọi chuyện xảy ra. Họ xem đấy là thử thách ắt phải có trên đường hành hương cũng như trên đường đời. Họ quan niệm có gặp ách nạn như thế mới quán xét được tâm mình, thực hành được lời đức Phật dạy. Đòan hành hương để xe máy kéo lại bên vệ đường, mọi người chung sức kéo và đẩy cái rơ mooc thôi. Họ sẽ nhờ thợ đến sửa khi đến thị trấn gần nhất. Đường càng lên dốc càng cao, có những đỉnh đèo rợp những dây cờ ngũ sắc, cờ bay phần phật trong gió suốt cả ngày lẫn đêm. Cứ đến mỗi đoạn đường có giăng cờ, Anh Tenzin lại buộc thêm vào một dây cờ, những dây cờ có viết lục tự đại minh, hoặc viết lời kinh, lời cầu nguyện…Đoàn người kéo cái rơ mooc nặng nề nhưng tâm thần nhẹ nhõm, thân xác tuy vất vả cực nhọc nhưng tinh thần hoan hỷ và an lạc. Đoàn người leo dốc và hát bài dân ca 

Tôi bước từng bước leo dốc đồi

Như mưa tuyết bay lất phất

Chúng ta từ một mẹ sanh ra

Nhưng số phận không giống nhau

Người số phận tốt làm Lạt Ma

Người số phận xấu hơn thì làm nông phu hoặc xót xa 

Ta lớn lên từ băng giá

Nhưng trái tim ta ấm nồng

Đức Phật luôn hộ trì chúng ta

Đức Liên Hoa Sanh và đức bổn mạng Tara 

Khi còn cách Potola khoảng một trăm hai mươi dặm, lòng mọi người hưng phấn, tinh thần mọi người như tươi tỉnh lạ thường. Mọi người sắp chạm vào ước mơ, sắp được lễ lạy thánh tích mà cả đời hướng về. Đêm ấy trời trăng vằng vặc, sau khi niệm kinh xong, ông Tenzin Choejor bế thằng bé Tenzin Dingzi Dengda hôn lên trán và chúc phúc , ông cởi sợi dây đeo có mặt đá cảm thạch khắc hình đức Phật trao cho Tenzin Gyatso

- Đây là món quà ta tặng cho cháu yêu quý Dingzi Dengda. Đức Phật và Đức Tara xanh sẽ hộ trì thằng bé, đeo dây này thì thiện thần sẽ hộ vệ cả ngày lẫn đêm

Ông ngừng lại, bưng bát trà sữa nhấm nháp một chút, vẻ mặt trầm ngâm, nhìn bếp lửa như thôi miên. Trông ông như người đang ở một cảnh giới nào xa lạ, gương mặt đầy nếp nhăn nhưng thanh thản và mãn nguyện. Ông hình như có điều chi muốn nói nhưng cố gắng kềm giữ. Cả căn lều im lắng, chỉ có tiếng củi cháy nổ lép bép thôi, thời gian như ngưng đọng và không gian như đông đặc. Tiếng ông trầm trầm cất lên

- Thế là ta cũng đã làm được điều mà cả đời ước ao. Chúng ta đã đi hơn một ngàn hai trăm dặm từ làng Mangkang đến đây, giờ chỉ còn chừng một trăm dặm nữa là được chiêm ngưỡng Potola, một thánh tích linh thiêng mà bất cứ người Tạng nào cũng hướng về. Giấc mơ lung linh sắp chạm được rồi, chỉ một tầm tay với nữa thôi, nhưng ta sẽ không kịp chạm được! Dù không chạm nhưng ta hài lòng và mãn nguyện. Ta sẽ vĩnh viễn trên đường hành hương để cúng dường và lễ lạy đức Phật.

Mọi người giật mình, Tenzin Gyatso vội vàng bảo

- Chú đừng nói điềm gở, vài ngày nữa thôi là chúng ta đến Potola. Chúng ta sẽ lễ lạy thánh tích, sẽ đi nhiễu Potola

Anh Rigzin Zigme cũng nói

- Tôi làm đồ tể mà còn được đức Phật gia hộ, ông là người hiền thiện thì ắt sẽ được đức Phật gia hộ, ông sẽ đến được Potola để đảnh lễ đức Phật!

Chị Zesay giọng lo lắng 

- Ông không sao đâu, ông sẽ lễ lạy Potola, sẽ đảnh lễ tôn tượng của đức phật ở Potola, vài mươi dặm nữa là chúng ta có thể thấy đỉnh của Potola rồi!

Ông cười nhẹ

- Ừ, thì chúng ta sẽ đi nhiễu Potola

Nói xong ông lần chuỗi niệm chú, cả căn lều lại rì rầm tiếng niệm chú, tiếng niệm chú, niệm kinh với âm thanh trầm và rền khiến lòng người nhập tâm và dường như thiên thần từ mười phương cũng bay về hộ trì quanh nơi phát ra âm thanh đang niệm kia

Sáng sớm hôm sau, chị Zesay lui cui nhóm lửa để nấu trà sữa và chuẩn bị món ăn. Không nói ra nhưng ai cũng muốn hôm nay đi sớm hơn, đi nhanh hơn để được đến Potola, Chợt giọng con bé Ceba la hốt hoảng như mếu

- Ông bị làm sao đó ba ơi? Con lay ông mà không thấy ông cục cựa

Linh tính cho biết có điều chi đó ứng với lời ông đêm qua, mọi người vội lại bên ông Tenzin Choejor. Anh Tenzin Gyatso bứt một cộng lông trên chiếc áo đang mặc để trước mũi ông, cộng lông không hề lay động, anh bảo 

- Chú tôi đã đi rồi

Mọi người lập tức ngồi xuống niệm kinh cho ông 

Sau đó anh Tenzin Gyatso đi thỉnh mời hai vị Lạt Ma ở tu viện Lobzang Kalden, cách mấy dặm đường, Hai vị Lạt Ma tụng kinh cầu chúc cho ông siêu sanh tịnh độ suốt mấy giờ liền. Tenzin Gyatso bó xác ông vào một tấm vải trắng và mang lên núi theo hai vị Lạt Ma. Đến nơi, hai vị ấy đốt một búi cỏ thơm , lập tức một bầy kên kên bay về đậu quanh quất gần đầy. Hai Vị Lạt Ma lại đọc kinh tiếp và anh đồ tể giờ trở thành một âm công bất đắc dĩ. Anh giúp cho thân xác ông trở về tứ đại nhanh chóng, thần thức ông có lẽ mãn nguyện vì thoát ra khỏi thân xác trên con đường hành hương. Thần thức ông giờ có lẽ đang nhiễu Potola và những thánh tích thiêng liêng khác. Ông đã đạt được ước muốn mà bao nhiêu người không với tới được. 

Cung Potola sừng sững trước mặt mọi người, những giọt nước mắt hạnh phúc hoan hỷ chảy xuống, giấc mơ bái yết thánh tích đã thành hiện thực. Mọi người đồng sụp lạy Potola, một cung điện hùng vĩ thâm trầm dưới bầu trời xanh. Một thánh tích huyền bí thiêng liêng mà bao đời Lạt Ma trụ ở đấy. Một tự viện to lớn nhất thế gian này, cao nhất trên mặt đất này, nơi tôn thờ hàng ngàn tôn tượng của đức Phật, đức Liên Hoa Sanh, Tara và cả Tùng Tán Cán Bố. Hòa với những khách hành hương khác từ bốn phương hướng về Potola. Tenzin Gyatso ngẩn ngơ ngắm Potola mãi mà không chán, nhiễu Potola xong. Mọi người lại mua sắm thêm bơ sữa, bột khoai tây và những vật dụng khác để ngày mai lại tiếp tục hành hương lên Kailash.  phải tranh thủ bái yết và nhiễu núi thiêng Kailash trước khi mùa đông lại về. Niềm tin mãnh liệt, lòng tôn kính cùng cực, tâm tính thanh khiết đã giúp mọi người vượt qua mọi gian khó tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Đức Phật vẫn hằng trong tâm tưởng, vẫn đồng hành trong mỗi phút giây, mỗi bước chân hành hương. Đức Phật vẫn gia hộ đoàn hành hương cũng như tất cả mọi chúng sanh trong cuộc đời.


TIỂU LỤC THẦN PHONG

Ất lăng thành, 03/2021 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.