Hôm nay,  

Giải Oan Cho Biển

21/05/202120:08:00(Xem: 3254)

Hắn không biết gọi cô gái bằng gì cho đúng. Mãi, hắn mới đề nghị, bằng cách nói trống không, như thể đang đề cập đến một chi tiết không quan trọng về thời tiết, “Gọi là Tiểu Muội nghe được đấy nhỉ.”

“Sao cơ?” Đôi mắt cô tròn xoe. Hắn thấy chiếc bóng khẳng khiu mình trong đó.

“Huynh, muội; muội, huynh... nghe dễ thương. Gần gũi mà trang trọng.”

Cô gật gù, “Cải lương một tí, nhưng không sao.”

Đó là những mẩu đối thoại xảy ra trong trí tưởng tượng của hắn. Lúc kể cho cô nghe, hắn hình dung thấy cô gật gù, “Em thấy cũng hay hay...”
Từ đó, hắn có cho cô một tên gọi.

Cô thường kể cho hắn nghe về vùng biển ấm nơi cô đang ở. Giọng cô mời mọc, “Có dịp nào đó, anh qua đây chơi. Đêm trăng sáng em sẽ dẫn anh ra biển nghe sóng vỗ rì rào. Em sẽ dẫn anh đi tìm những con ốc biển thường bò lăng quăng trên bãi. Em sẽ chỉ cho anh coi những con dã tràng loay hoay se cát. Em sẽ chỉ cho anh coi những vết cắt san hô dưới bàn chân rướm máu. Bữa trước, em đuổi bắt một con hải âu anh biết không. Con chim dạn không tưởng tượng được. Nó chờ em lại thật gần rồi mới vỗ cánh bay đi. Có lần em chạm cả vào bộ lông trơn mượt. Con chim dụ em chạy vòng quanh trên bãi mãi tới khi em ngã nhào vào con sóng. Lúc ấy, nó mới vỡ ra những tiếng kêu thích thú. Đám du khách nhìn em cười ngặt nghẹo. Em xấu hổ quá thôi...”

Cô trẻ thơ trong cách nói, trong câu nói và ngay cả trong khóe cười. Cô đưa hắn qua biết bao nhiêu là bể dâu, trở về thời thơ ấu. Và cái thời thơ ấu ấy làm lòng hắn rưng rưng.

Biển. Hắn nhớ biển hơn bất cứ thứ gì trên thế gian. Hắn mê những con sóng. Hắn tương tư tất cả những gì liên quan đến biển. Nghe cô kể trong điện thoại, trong những dòng điện thư gửi cho hắn, lòng hắn xốn xang không yên.

“Vậy thì lúc nào có dịp, anh bay qua đây đi, em trả anh về cho biển...”

Tưởng những lời rủ rê của cô chỉ có trong tưởng tượng, ai ngờ đâu một sớm nọ hắn khăn gói lên đường, đáp chuyến bay vượt bao nhiêu là lục địa, bao nhiêu là đại dương về một nơi rất lạ. Suốt đường bay, cứ mỗi lúc trời quang, bắt gặp cái nền biếc xanh mênh mông phía dưới, lòng hắn lại tẩm đẫm sương mù.

           
Hắn đến, lôi thôi, lếch thếch như dân cái bang chính hiệu. Vừa nhận ra nhau xong, cô “chấm” ngay cái túi du lịch cũ rích của hắn, “Anh có cái túi hay nhỉ.”
         
“Túi này ấy à?” Hắn ngượng ngập vỗ nhẹ vào cái túi vằn vện cũ rích, đeo lệch một bên vai. “Mang từ trại tị nạn qua đây đấy.”
           
Cô nhìn hắn, cười nửa miệng. Hắn không kịp hiểu ý cô, nhưng cũng cười theo.
           
Nhìn căn phòng tươm tất, hắn chắc lưỡi, ngoẹo đầu, “Tiểu Muội nhà mình chu đáo quá!”
           
Cô lại cười.
           
Ngay chiều hôm ấy, hắn đề nghị, “Tối nay mình ra biển ngắm trăng mọc nghe.”

Cô gái ngơ ngác nhìn hắn vài giây, rồi tủm tỉm cười, “Tuần này không có trăng.”

“Không có trăng à?” Hắn thảng thốt.

“Vâng ạ!”

Lâu lắm hắn mới lại nghe được giọng Bắc. Hắn nhớ quá đỗi cái nũng nịu xa xưa của một người con gái Bắc.

“Bao lâu nữa mới có trăng vậy?”

“Nửa tháng.”

“Lâu vậy?”

“Thì hai tuần chứ mấy, anh!”

Cô yên lặng nhìn hắn buồn. Cái buồn chấp chới trong hai con mắt loang loang.
           
Dường như thấy hắn tư lự, lòng cô cũng không yên. Hắn đoán thế, lúc nhìn vào đôi mắt mầu nâu đặm.

“Uổng quá, anh ra tuần này không có trăng...” Cô ngần ngừ một lát rồi đề nghị, những ngón tay vuốt những sợi tóc lòa xòa trên trán, “hay là anh ở lại thêm hai tuần nữa được không?”

Hắn nhìn cô, đo đếm chiều dài, chiều rộng những ý nghĩ tàng ẩn trong từng ngôn từ vắt trên đôi môi mịn màng.

Cô dạn dĩ, “Cái vé máy bay của anh đâu?”

Thấy hắn lừng khừng, cô nhanh nhảu lục giỏ hắn tìm tấm vé. Đi đâu hắn cũng mang cái xách tay xập xệ đi theo. Hắn tần ngần nhìn mười ngón tay cô thoăn thoắt lục lọi những giấy tờ chữ nghĩa chi chít.

“Giấy đâu mà nhiều thế này!”

“Rác không à!” Hắn ngượng ngùng, lấp liếm.

Gió vờn tóc cô bay. Cô bốc đại một mảnh giấy nhỏ, nụ cười đọng trên môi, “Giấy gì đây?”

“Tấm vé số. Đừng đọc...”

Hắn càng bối rối, cô càng không buông tha. Cô đọc lướt những dòng chữ rối rắm, “Bé ơi, thôi ngủ, khuya rồi, kẻo thâm quầng mắt, ngậm ngùi lòng anh.” Hai câu lục bát hắn viết cho cô dạo nào. Hai câu thơ sến tột bực nhưng lại làm cô bối rối. Cô gạt những mảnh giấy nguệch ngoạc lũ chữ kiến bò qua một bên, lôi ra cái túi vải nhẹ thênh mầu nâu nhạt. Hắn hốt hoảng quơ tay chụp lấy cái túi.

Hắn nắm lấy cổ tay cô, đẩy những ngón tay thuôn dài vào xấp giấy tờ gài giữa cuốn sách dầy, “Vé trong đó đó.”

Trong lúc cô lật lật những trang giấy mỏng tanh, không ngó ngàng gì đến hắn, hắn lén lút nhét cái túi vải vào túi quần.

Không thấy hành động của hắn, cô mở trang sách, lôi ra tấm vé máy bay mầu hồng nhạt, “Phải đây không?”

“Nó đó.”

Hắn nhìn tấm vé mầu sắc gợi tình. Tấm vé đi du lịch thiên đàng hạ giới thành ra cái mầu cũng gợi cảm.

“Ở lại ít ngày chờ trăng nghe?” Cô đề nghị.

“Thật không vậy?”

“Thật chứ.”

Bàn tay cô thoăn thoắt. Âm thanh sắc, gọn. Tấm vé máy bay trong chớp mắt hóa thành những cánh bướm mỏng manh chập chờn giữa không gian màu tím nhạt. Hắn ngỡ ngàng nhìn cô, rồi nhìn những con bướm quyện quanh hai bàn chân cô. Những con bướm làm hắn chóng mặt.
Chiều hôm ấy, cô giữ lời hứa. Cô dẫn hắn xuống bãi biển. Hai người loay hoay xây biết bao nhiêu lâu đài.

“Anh nghĩ gì vậy?”

“Lâu đài này...”

“Sao anh?”

Hắn lặng thinh nghĩ đến nhúm sợi tình cảm mong manh đang đan chung với cô tấm chăn hạnh phúc. Có phải là tình yêu đó chăng? Nếu không là tình yêu, người ta đâu có miệt mài ngóng đợi và vượt bao nhiêu là đại dương mà tìm đến.

Lúc ngước lên, bắt gặp người con gái đang nhìn mình đăm đăm, hắn buông rơi những ý nghĩ vụn vặt, vội đuổi theo những con dã tràng.

Hắn chạy như hắn thuở lên chín, lên mười.

Lúc hắn trở lại, cô đưa cho hắn coi cái vỏ ốc xà cừ. Cô áp vỏ ốc vào tai hắn.

“Anh nghe thấy gì không?”

“Chỉ nghe thôi, chả thấy gì...”

Cô nũng nịu, “Chọc quê em hoài...” Rồi cô nghiêm trang, “Cái này về để chặn giấy tờ cho khỏi bay.”

Hắn cười. “Chỗ anh làm việc chả bao giờ có gió. Sóng gió thì có chứ gió không thôi thì chả bao giờ... Nhưng cứ cho anh, để giữ những bài thơ em gửi.”

Cô nắm tay hắn, xô hắn vào con sóng lớn vừa mới ập vào bờ cát.

Hắn lao đao như người say rượu.

Buổi sáng, cô thức sớm. Nắng và gió vờn bên chiếc màn cửa màu hồng. Cô vén màn nhìn vạt nắng đầu ngày nhấp nhá trên ngọn dừa. Cô dõi nhìn ra biển cả ở phía sau nhà.

Cô bắt gặp bóng hắn lui cui trên cát. Cô vội vã pha một ly cà phê, tất tưởi chạy xuống bãi. Hắn đi đâu mất tiêu. Nhưng tòa lâu đài còn đó. Và những vỏ ốc trắng vạch đều hai cái tên quen đan chéo vào nhau. Tên cô và tên hắn. Cô bâng khuâng nhìn xác một con dã tràng nhấp nhô dật dờ theo bọt sóng vướng trên cát ẩm.

Cô nhớ hắn thường hỏi thăm những con dã tràng. Con dã tràng có mấy chân em nhỉ. Lâu quá, anh quên mất tiêu rồi!

Cả về những con ốc mượn hồn, những mảnh san hô cứa gan bàn chân rướm máu. Những cơn gió lạnh về đêm... Cả về những lần biển nổi giận.
           
Chợt nghe tiếng hắn gọi từ xa, phía sau ghềnh đá. Cô chạy lăng quăng dọc theo bờ cát. Những ngụm cà phê hắt trên ngực áo. Bóng hắn lấp ló bên tảng đá hình thù kỳ dị. Cô chạy qua hướng khác. Hắn đuổi bắt hụt hơi. Rồi bỗng dưng cô ngã nhào xuống những con sóng. Tiếng la thất thanh của cô hẳn làm lòng hắn xốn xang. Ly cà phê văng khỏi tay cô, vục vào cát mịn. Mảnh san hô sắc cạnh nằm trơ vơ trên cát.

Hắn hì hạch đỡ cô dậy, dìu cô ngồi xuống bãi, nâng bàn chân cô lên miệng. Cô cảm được miệng hắn hút chặt lấy da thịt cô như miệng cái ống giác hơi thuở nhỏ bà nội thường áp lên lưng cô mỗi lần gió máy cô nhức đầu, sổ mũi. Vị mặn của máu hay của muối biển thấm vào những kẽ răng hắn. Lúc buông bàn chân cô ra, quanh mép hắn cát viền một cái vòng méo mó. Cô che miệng cười.

Hắn ngơ ngác như người đi lạc.

“Hình như người phụ nữ Nhật Bản không bao giờ cho người đàn ông khác thấy bàn chân của mình phải không anh?” Cô ngu ngơ hỏi.

“Hình như vậy.”

Những câu trả lời của hắn nước đôi, mơ hồ, có có, không không. Chả bao giờ cô hiểu được. Và cái khó hiểu nhất nơi hắn là ánh mắt săm soi; là cái nhìn vằn vện tia máu ném vào những con sóng vô tình ngoài khơi xa thẳm.

Một lần, cái nhìn tóe máu của hắn đã làm cô hốt hoảng, “Anh sao vậy?”

Hắn bàng hoàng, “Đâu có... Anh đâu có sao.”

“Anh làm em sợ quá đi!”

Hắn lặng thinh. Cô thì vẫn lao xao, “Như thể anh đang nhìn thấy cái gì ngoài khơi.”

“Không có…”

“Có!”

Hắn lấp liếm, “Để anh kể cho nghe...”

Rồi hắn kể cho cô nghe. Nhưng hắn chỉ nói về những cái thời xa lơ lắc. Làm như ở bên cô, hắn nhớ lần hồi vô số những vũng biển ấu thơ. Cả những lần trốn học, nấp sau chiếc xuồng nằm chênh vênh trên cát, để thày giáo và cả lớp phải túa đi tìm...

“Hôm sau,” Giọng hắn như ly cà phê pha đặm nỗi u uất không tên, “nói dối mẹ là vợ thầy sinh em bé nên thầy cho học trò nghỉ hết.”

“Tới bây giờ, chắc mẹ cũng chả biết đâu anh nhỉ.” Cô thì thầm, nhưng hắn cũng nghe được đến cả nỗi ngậm ngùi trong giọng nói của cô.

“Mẹ quên rồi.”

“Mai mốt gặp, em sẽ nhắc mẹ; em sẽ kể tội anh...”

Cô nói, như thể hai người đã có một lần đính ước.

Hắn xoay qua nhìn cô, “Mẹ tin anh lắm.”

Thấy môi cô hơi mím lại, hắn vội nói chữa, “Nhưng gặp em, chắc mẹ sẽ tin em hơn anh.”

Người đàn ông nghĩ đến lúc đưa cô gái về thăm mẹ. Những con ngõ quanh quất bóng cây. Hắn nhớ những cây bàng rũ lá trước sân. Hắn thấy những con sâu ngoằn ngoèo bò trên lá. Những con sâu buông mình vật vờ ở đầu những sợi tơ. Hắn thèm có một con sâu trên tóc cô, để hắn có cớ vuốt ve những sợi tóc mềm.

“Anh nhớ những chiếc ghe biển trát keo bóng mầu hổ phách quá, Như ơi.” Hắn thở than với cô lúc nhìn những chiếc xuồng máy lướt vùn vụt kéo theo những người chơi môn thể thao trượt nước. Biển xanh thẫm dưới bầu trời không một gợn mây.

Hắn đi bên cạnh cô, theo hai chiếc bóng đổ dài trên cát, “Anh nhớ mùi nồng của muối ở những bãi biển ấu thơ.”

Một buổi chiều cô hỏi, ngón tay trỏ thuôn dài chỉ vào cái túi hắn đeo bên vai, “Anh có cái gì mà bí mật thế?”

“Có gì đâu!” Hắn lúng túng quơ quào hai bàn tay trước mặt như đứa bé bị bắt gặp đang ăn vụng.

“Em thấy anh giấu kỹ như người ta giữ gìn bảo vật.”

“Có gì đâu!”

Rồi hắn nói ngay qua chuyện khác. Nhưng những con dã tràng khẳng khiu chân cẳng, những con ốc mượn hồn, những con cua gai góc không làm cô quên được cái vật đầy bí mật mà hắn lúc nào cũng giữ kè kè bên mình.

Cô cố không nhắc đến cái vật bất ly thân ấy của hắn, cho đến khi cô thấy dường như cái vật lạ lùng ấy không còn là mối bận tâm của hắn nữa. Hôm ấy, chờ hắn xuống bãi được một lúc, cô tò mò mở ngăn kéo tủ, lấy cái túi vải cũ kỹ ra. Cô thở hào hển như người vừa chạy qua một quãng đường dài. Cô loay hoay mở cái nút thắt miệng túi.

Một mùi hôi mốc xông lên làm cay nồng hai mũi. Cô hắt xì một hơi hai ba cái. Cô chạy ra cửa sổ, nhìn chăm chăm xuống bãi. Người đàn ông ngồi trên bờ cát. Cắm cúi, loay hoay. Chắc lại một tòa lâu đài cho cô và hắn, cô thầm nghĩ.

Rồi cô vội vã trở về với cái túi bí mật.

Những ngón tay run run gỡ hoài không ra cái nút thắt. Tim cô đập dồn dập tiếng trống của những vũ điệu thổ dân lúc sắp kết thúc một màn vũ sôi động. Lúc miệng túi mở ra, cô thấy hai miếng gỗ nâu khắc thành hình trái tim và hình cây Thánh Giá. Miếng gỗ hình trái tim có khắc hai chữ cái quấn vào nhau. Cô thầm tìm tên và họ hắn trong những chữ ấy nhưng không được.

Mùi ngai ngái, tanh tanh của vết máu bầm hằn trên thớ gỗ làm cay nồng mũi cô.

Cô vùi vội cái túi vải vào ngăn tủ.

Buổi tối, cô rủ hắn đi nhặt củi về đốt lửa trại. Hai người ngồi đối diện nhau. Ở giữa là ngọn lửa lách tách nứt ra từ những cành cây khô. Rồi hai người dựa lưng nhau, nhìn những vì sao lấp lánh. Gió dạt tóc cô bay sang cả vai hắn. Mùi muối nồng nồng, và mùi tóc cô làm hắn ngây ngây.

Tiếng Sóng. Tên cuốn tiểu thuyết của một nhà văn Nhật Bản. Tiếng sóng đổ đầy không gian anh, hoà với tiếng sóng vọng ra từ trí tưởng.” Tiếng hắn thì thầm nghe như tiếng gió ru.

“Anh thấy biển của em có giống biển thời thơ ấu của anh không?” Cô hỏi.

“Giống em à, giống lắm...” Hắn quay mặt ra ngoài khơi, hấp tấp trả lời.

Cô bắt gặp trong giọng nói của hắn, cái ngột ngạt, nghẹn ngào như giọng nói một người đang cơn xúc động ngặt nghèo.

“Anh nhớ biển trong truyện của Yukio Mishima.”

Cô lặng thinh nghe hắn kể.

“Truyện đọc lâu lắm rồi, anh chỉ còn nhớ cái cảnh cô gái cởi áo hơ trước đống lửa cho khô, lúc cô và một đứa con trai khác kẹt lại đâu đó trên hải đảo.”

“Anh nhớ khôn thật đấy!”

“Còn lại là biển cả mênh mông và sóng dạt hàng hàng lớp lớp.”

Rồi hắn lại thì thầm cho cô nghe về biển. Hắn giới thiệu với cô những đứa bạn ấu thơ của hắn. Lũ con trai nghịch ngợm bốc cát ném nhau. Choàng những mớ rong biển bùi nhùi lên cổ nhau. Hắn nói về những con sứa lửa làm nổi mẩn đỏ khắp người.

Và hắn kết luận, “Biển trong trí nhớ anh chỉ thiếu một bóng hình con gái.”

Rồi hắn lặnh thinh.

Trong đầu hắn, những mảnh ký ức được chắp lại. Khoảng trống cuối cùng đuợc lấp đầy. Cô ở đó, trong cái ô vuông trống trải cuối cùng của đời sống hắn.

“Về thôi anh, ngồi hoài cảm lạnh chết!”

Người đàn ông đứng sững như người lên cơn hóa đá. Cô ngơ ngác nhìn hắn. Tóc hắn vật vờ trên vừng trán chữ nhật.

Cơn bão ở miền trung. Gió nhổ bật những dây chằng giăng bốn phía. Mái nhà tranh sụm xuống. Thằng bé khom người lại tránh né những kèo những cột. Tiếng cây vặn mình răng rắc. Nhà đổ rồi. Con bé em mếu máo. Nhưng thằng anh thì không sợ. Còn bố thì vẫn lăng xăng kéo những sợi dây kẽm gai chằng chịt mong cứu căn nhà xiêu vẹo. Mẹ cuống quýt gọi con. Thằng anh bỏ chiếc cặp xuống cái bàn gỗ vừa mới gẫy lìa một chân. Vậy là hôm nay được nghỉ học phải không mẹ? Hắn tẩn mẩn nói như thể cho một mình hắn nghe.

“Anh có điều bí mật muốn nói với em.” Một buổi chiều, hắn thì thầm cho cô nghe những lời dường như mới khai quật từ tận đáy lòng.

Cô tròn đôi con mắt đợi chờ. Hắn nhìn đăm đắm một lọn tóc mai của cô vừa ngả mầu nâu trong nắng nhạt.

“Hiền muội!” Hắn gọi cô bằng hai chữ đã dùng lúc mới quen.

Cô vuốt tóc, lên giọng nghịch ngợm, “Đại sư ca có điều gì muốn nói?”

Hắn cũng lên giọng cải lương, “Hiền muội có biết anh là ai không vậy?”

“Dạ không.”

“Sao dám cho anh tạm trú?”

“Em cũng không biết nữa.”

“Lỡ anh là tội phạm từ đất liền trốn ra đây thì sao?”

Trong một giây, đôi mắt cô chớp vội. Nhưng cô giấu thật nhanh những ngỡ ngàng.

“Em giam anh ở đây luôn!”

Cô mạnh miệng nói thế thôi chứ hắn nghĩ trong lòng cô đang dấy lên một chuỗi những chấn động như dòng phún xuất thạch cuồn cuộn dưới lòng đất của hải đảo nơi cô đang sống.

Hai con mắt cô không rời hắn một phút giây nào.

“Có bao giờ em nghĩ anh là tù vượt ngục không?”

Không có câu trả lời. Hắn thấy người con gái nuốt nước miếng. Một nếp nhăn mờ ảo hằn lên, thấp thoáng trên sống mũi thuôn dài. Tóc vẫn đùa trong gió. Đôi vai ngập ngừng một cái nhún vô hình, mờ ảo. Và những ngón chân cô miết xuống trên nền cát bạc.

“Anh chả bao giờ nói với ai...” Hắn thì thào.

Cô vẫn ngây ra nhìn hắn, cõi lòng manh nha cơn cào cấu của cảm giác bị phản bội.

“Mà cũng chả ai thèm nghe anh nói. Bây giờ chỉ một mình em nghe anh. Thành ra anh muốn nói thật.”

Hàm răng cô cắn muốn nát bờ môi.

Hắn run run cầm lấy hai bàn tay cô, “Đừng nói với ai, nghe.”

Cô điếng người, mặc dù thân thể cô mềm nhũn.

“Hiền muội!”

Cô cố tẩm chất cải lương vào giọng nói, nhưng cô không ráp nối nổi thành câu kệ được nữa. Thành ra cô thì thào, “Đại huynh...”

Buổi tối, cô nhức đầu, chóng mặt. Cô nhớ cái miệng hút chặt thịt da cô. Cô mềm như miếng thạch; cô bị cuốn sâu vào cái hang sâu đen ngòm có những chiếc răng sắc cạnh. Cô xây xẩm mặt mày. Lồng ngực nhoi nhói đau. Cô nghĩ hoài đến cái miệng như ống giác hơi của người đàn ông lúc hắn hút máu ở vết cắt dưới gan bàn chân cô. Cô nghĩ đến những nhà tù liên bang. Tên tù vượt ngục dễ thương. Cô nhớ đến mảnh gỗ khắc hình Thánh Giá. Cô nghĩ tới mảnh gỗ khắc hình trái tim; trái tim nhuốm máu. Cô đang chứa chấp phạm nhân. Gió lùa những sợi tóc vờn bay trên ngực áo. Cô nghĩ đến những ngón tay thuôn dài của hắn xới sâu vào lòng cát ướt. Những ngón tay xới trên ngực non. Xớn xác, xôn xao. Trong một thoáng, cô hoảng hốt lắc đầu. Những ngón tay tội phạm. Xứ sở buôn súng đạn tự do. Ai cũng có thể trở thành kẻ sát nhân. Hắn đã giết bao nhiêu người rồi vậy? Hình ảnh trái tim và cây Thánh Giá gỗ nồng nặc mùi tanh và sậm mầu máu bầm hiện ra rõ nét trong trí tưởng tượng cô.

Như người mộng du, cô quay trở vào, lững thững bước về phía bàn học. Cái ống nghe điện thoại mầu ngà. Ngón tay cô run run bấm những con số. Tiếng nói ở đầu dây. Hai tai cô lùng bùng. Đôi con mắt lướt thướt vạch dài trong trí tưởng cô nỗi niềm nào đó không thể đặt tên. Nụ cười buồn và những câu thơ mượt mà. Are you OK, hello, hello... Nhân viên tổng đài cuống quýt réo gọi. Xin lỗi, tôi gọi lầm số.

Cô gác điện thoại, thầm nhủ lòng. Thôi, ngày mai hỏi hắn cho ra chuyện đã, rồi báo cảnh sát cũng không muộn.

Cô tắt đèn, vén màn cửa sổ, nhìn ra biển thêm một lần theo thói quen. Đêm pha loãng ánh sao. Trong cái nhá nhem nhập nhoạng của mầu sắc, cô thấy bóng ai như hắn, ngồi co ro trên bãi vắng thênh thang. Ơi tên tù vượt ngục lạ lùng. Đã có biết bao nhiêu tội phạm thanh toán, giết người không gớm tay mà lại biết ghép vần, ráp chữ làm thơ trong các phim ảnh Việt Nam rồi nhỉ. Thành ra hắn cũng chẳng phải là ngoại lệ hay ho gì.

Đêm về, hắn kể cho cô nghe bao nhiêu là chuyện xưa tích cũ. Hắn bảo hắn chạy trốn dĩ vãng. Hắn quay cuồng theo cuộc sống. Hắn nhốt kỷ niệm trong sâu thẳm tâm tư. Hắn là tên tù vượt ngục.

Anh giống tên tù vượt ngục. Anh trốn chạy khỏi trại giam quá khứ. Biển khơi mịt mờ. Anh sợ lũ kỷ niệm vây quanh anh; lũ kỷ niệm giăng đầy ký ức. Chúc em ngủ ngon! Cô đợi hắn về phòng, quay lại cười với cô thêm một lần nữa, rồi cô đóng cửa phòng mình lại, khóa thật kỹ. Còn chặn thêm cái ghế cho chắc ăn.

Đêm của cô nhập nhòe ác mộng. Một mảnh vỡ của cơn mộng dữ đánh thức cô lúc trời còn tối. Bầu trời phía trên biển oi oi ráng đỏ mầu ớt chín.

Cô hé cửa nhìn qua phòng hắn. Cánh cửa mở tung. Giờ này chắc hắn đang xây lâu đài trên bãi cát. Cô nghĩ ngợi vẩn vơ.

Cuối cùng, cô quyết định quay những con số điện thoại khẩn cấp.

“Hắn đang ngồi trên bãi biển.”

Lưỡi cô líu lại. Cô đọc lộn hai lần cái tên bãi biển bằng ngôn ngữ của thổ dân.

“Giờ này?” Giọng người cảnh sát đầy vẻ ngạc nhiên, như thể không tin được rằng hải đảo đang chứa chấp phạm nhân.

“Vâng. Các ông tới ngay đi.”

“Nếu hắn trở vô, cô cố nói chuyện tự nhiên, nhưng rất cẩn thận để cầm chân hắn lại. Chúng tôi sẽ đến ngay...”
           
Nỗi xốn xang không để cô ngồi yên một chỗ. Hai đầu gối rụng rời nhưng cô cũng rán lết ra bãi biển. Cô ném cho hắn cái cười nhạt thếch.

Rồi cô ngồi bó gối trên cát, bồn chồn nghe hắn kể lể.

Hắn úp úp mở mở, như vẫn thường úp mở. Rồi ngần ngừ thọc tay vào túi quần, lôi ra cái túi vải mầu nâu như vải áo nhà sư.
Mặc cho cô hồi hộp, hắn thận trọng gỡ sợi dây, rồi tuồn hai vật đẽo gọt sơ sài hình trái tim và hình Thánh Giá ra bàn tay. Trái tim cô đập tưởng chừng làm rung nếp áo. Con mắt hắn dán lên hai vật sậm mầu máu bầm như gã phù thủy mê man luyện một phép phù.

Bỗng dưng hắn quăng chúng vào những con sóng bạc.

“Ơ, sao anh ném đi vậy?” Cô la lên, thảng thốt.

“Máu không à. Bỏ đi!” Giọng hắn hằn học.

Cô càng cuống lên. Vậy là sẽ không còn bằng chứng gì nữa. Cảnh sát sẽ không tin cô. Cô phóng dậy, nhào vào những con sóng, cuống cuồng tìm kiếm.

Hắn ngẩn ngơ vài giây rồi hoảng hốt chạy theo.

Hắn ôm cứng lấy cô. Tóc cô rối bời, dính bết vào nhau. Cái đầu bù xù của cô chà miết cả vào mặt hắn, nhám nhúa.

“Như làm gì vậy?”

Cô cào cấu, xô đẩy. Tên tù vượt ngục phi tang thật đúng lúc. Hắn gian manh, xảo quyệt và nguy hiểm biết chừng nào! Nhưng cô không sợ hắn nữa. Cô vùng vẫy, cô xô đẩy hắn. Cô ngụp lặn tìm trái tim và cây Thánh Giá gỗ. Hắn kéo cô lên. Hắn ôm cứng lấy cô. Sóng lớn xô hai người ngã nhào. Cánh tay cô quơ quào, vung vẩy. Nước mặn ập vào cuống họng. Cô ngộp, ho sặc sụa. Nước mắt cô dàn dụa. Bàn tay hắn hung hãn miết tình cờ trên khuôn ngực săn cứng. Rồi hai bàn tay ấy đan lấy nhau, thành cái vòng siết quanh cái bụng thon của cô.

Hắn nhấc bổng cô lên, hớt hải, “Em sao vậy, Như?”

Hắn vừa lôi cô vào bờ vừa hổn hển, “Bỏ mấy thứ đó đi. Em phải giúp anh quên...”

Cô gào khan cổ họng, “Trái tim, cây Thánh Giá, trái tim...”

Hắn lắc mạnh đôi vai mềm của người con gái, “Em phải giúp anh quên. Em phải giúp anh giải oan cho biển. Biển vô tội. Biển ngàn đời vô tội. Cô gái đi cùng chuyến ghe vượt biên với anh cũng vô tội. Chỉ những tên cướp biển mới có tội. Anh vẫn thấy thật rõ trái tim và cây Thánh Giá gỗ cô ấy đeo bằng sợi dây gai. Thằng cướp biển giật đứt sợi dây, cắt một đường rướm máu trên cái cổ trắng ngần. Những thằng cướp lôi cô ấy đi. Trái tim và cây Thánh Giá gỗ văng lại chỗ anh nằm. Anh giữ đã mười mấy năm nay. Anh thù biển cũng đã mười mấy năm nay. Có em, anh có thể quên đi những hình ảnh hãi hùng. Biển bị ghét oan. Vì vậy, anh trả về cho biển. Để anh quên; để anh có thể yên lòng mà nói với em rằng anh sẽ yêu em như đã từng yêu biển.”
           
Hụt hơi, cô đuối người, ngã ngồi xuống cát ướt. Cô oằn người ho khan. Muối mặn nồng đến tận óc cô. Hắn quỳ trước mặt cô. Hắn đưa tay gỡ bệt tóc ướt dính bên má cô. Rồi hắn quơ tay, chỉ ra khơi xa mịt mù. Nước đọng trong tai cô làm thành tiếng ù ù xa vắng. Cô nghe tiếng được tiếng mất mà hắn thì vẫn xôn xao, “Em thấy không? biển... của anh; biển... của em... Biển của tụi mình vô tội... Có em và biển, anh thành người hạnh phúc nhất thế gian. Ơ mà, kìa xe cảnh sát làm gì mà chạy ra biển nhiều quá, Như ơi...”

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.