Hôm nay,  

Lời Tỏ Tình Đã Cũ

02/07/202120:43:00(Xem: 5173)


“Thưa cô, tôi có một ngạc nhiên dành cho cô.” Một ngạc nhiên; một ngạc nhiên kỳ thú. Người đàn ông ngả người ra phía sau, hít một hơi dài, khoan khoái. Phi cơ đang đảo vòng cuối cùng trước khi đáp xuống phi trường. Hắn nhìn qua khung cửa hẹp hình chữ nhật phía bên trái. Những cụm mây trắng bị xé rách, loãng ra dưới cánh máy bay. Nắng rực rỡ chung quanh. Những phố xá, xe cộ nhỏ li ti phía dưới. Nỗi xôn xao vướng vít trong lòng. “Thưa cô, tôi có một ngạc nhiên dành cho cô.” Bây giờ, nói ra câu ấy, hắn cảm thấy ngượng miệng biết bao nhiêu. Cái câu chôn kín trong lòng từ hai chục năm nay. Thưa cô (hay thưa bà nhỉ, hai chục năm đã trôi qua kể từ cái ngày cậu-thiếu-niên-hắn phạm một lỗi lầm mà hắn không bao giờ tha thứ cho mình được;) thưa cô, tôi có chuyện này muốn nói với cô. Đúng ra là một ngạc nhiên kỳ thú. Cô có nhớ hồi cô học lớp đệ tứ trường trung học Lê Bảo Tịnh không? Người đàn ông kín đáo mỉm cười với hình ảnh người thiếu nữ trong trí tưởng. Hắn đưa tay, rút cuốn sách gài ở phía sau lưng ghế của người ngồi phía trước, thong thả mở ra. Ở giữa những trang giấy, một bức hình trắng đen lớn gần bằng bàn tay, bày ra chân dung một người con gái tóc xõa ngang vai. Hắn cầm tấm hình lên sát mặt, ngắm nghía. Người con gái có đôi mắt tròn, với cái nhìn tinh khiết của những giọt nắng đầu một ngày mùa xuân ấm áp. Đôi môi mỏng vạch hờ một nụ cười thấp thoáng, như nụ cười dành cho một người quen mặt nhưng chưa biết tên. Hắn nghiêng đầu ngắm cô gái trong cõi màu sắc thô sơ đen trắng ấy. Hắn như lịm dần vào cõi mê ảo diệu của một thời đã qua.

“Hình con gái ông phải không?” Bà cụ người da trắng ngồi bên cạnh hắn lên tiếng hỏi. Hắn giật mình, sửa vội lại thế ngồi cho ngay ngắn, bàn tay phản ứng bằng cách gấp vội cuốn sách lại như lúc bị bắt gặp nhìn trộm một tấm hình khiêu dâm, rồi bối rối mở rộng trang sách, cho tấm hình trải rộng ra trước mặt hai người. Hắn bẽn lẽn quay qua nhìn bà cụ. “Sao bà lại nghĩ đó là hình con gái tôi?”

“Thấy nét trẻ thơ của cô ấy, nên tôi đoán vậy...”

Ừ, con gái tôi, nếu thực sự chúng tôi có với nhau một đứa con, chắc cũng có những nét giống hệt người trong hình này. Con làm sao không giống mẹ cho được. Hắn mỉm cười, ngẫm nghĩ, nhưng không nói ra.

Bà cụ vẫn không hết thắc mắc, “Tôi đoán có đúng không?”

“Sai rồi...” Hắn ngập ngừng, “Đây là hình một người quen. Tôi đã có gia đình đâu mà có con...”

“Cũng lạ đấy chứ. Thời tôi còn trẻ, người ta lập gia đình sớm, người ta nghĩ tới gia đình trước khi nghĩ đến xã-hội, bây giờ thì ngược lại...”

Bà cụ bắt đầu kể lể. Hình như đó là một thói quen cũ kỹ. Hắn để ý lúc phi cơ sắp cất cánh, và trong chuyến bay, mỗi lần phi cơ bị lắc vì gặp vùng không khí loãng, bà cụ đều quay qua hắn, nói chuyện huyên thuyên, như để đánh lạc hướng nỗi lo sợ đang quấn quanh những sợi thần kinh già nua, mỏi mệt.

“Có gì đâu. Đó là ý thích mỗi người.” Hắn kết luận, mong bà cụ sẽ ngưng cái đề tài không mấy hấp dẫn ấy. Có gì đâu. Bà nghĩ thế-hệ chúng tôi lo công danh sự nghiệp trước chứ gì. Không đúng mấy đâu. Chỉ tại chưa gặp được một người có nhã ý chia xẻ với tôi phần đời còn lại. Thế thôi. Người con gái trong bức hình trắng đen này đã một lần khóc vì tôi, bà biết không. Khóc như mưa, như gió. Rồi quên đi cũng mau như gió thoảng, mây trôi. Hắn ngước nhìn dấu hiệu cấm hút thuốc và yêu cầu gài dây an toàn, vừa bật sáng trong lòng máy bay. Những khung chữ màu đỏ ấy cũng thắp trong lòng hắn nỗi xôn xao của cậu học trò, sắp nói cho một người con gái nghe những lời tình tự thứ nhất.

Người nữ tiếp viên hàng không có mái tóc bạch kim bước lại nhắc hắn gài dây an toàn. Nụ cười khả ái của cô làm hắn thấy ngượng ngùng. I am sorry. Hắn lắp bắp câu xin lỗi thông thường. Không sao, năm phút nữa ông có thể gỡ thắt lưng an toàn ra được rồi. Người thiếu nữ đi rồi, nụ cười còn vương lại trong không gian. Hắn nhìn theo đôi chân thon dài của cô ta. Đôi chân mang vớ màu đen thấp thoáng những gọi mời mờ ảo. Tiếng nhân viên phi hành cám ơn hành khách đã chọn hãng máy bay của họ để du lịch vang vang trong loa phóng thanh.

Chẳng bao lâu nữa, hắn sẽ gặp người con gái năm xưa.

“Chuyến này ông ở California lâu không?” Bà cụ lại hỏi.

“Ba tuần.”

“Chúc ông vui.”

“Cảm ơn.” Hắn nói, lúc những bánh xe dưới lườn phi cơ rầm rộ lăn trên mặt phi đạo. “Cũng xin chúc bà như vậy.”

Bà cụ cảm ơn hắn. Hắn quay qua trả lời không có chi, và bắt gặp bàn tay bà cụ bóp chặt lấy chỗ dựa tay của ghế ngồi. Lưng bàn tay vồng lên những sợi gân xanh thẫm dưới làn da lấm tấm những vết đồi mồi trắng đục.

Chẳng bao lâu nữa mình cũng sẽ già như thế. Rồi sẽ chết. Cũng may mà tìm gặp lại được người mình mơ tưởng bấy lâu nay. Hắn xoay đầu nhìn qua khung cửa nhỏ. Bãi cỏ xanh ngắt bên ngoài phi đạo vùn vụt dạt ra phía sau. Vài chiếc máy bay nhỏ đang thong thả lăn bánh trên những khoảng sân rộng thênh thang. Hắn ngước nhìn mây ở trên cao. Những đám mây gần gũi tưởng có thể vói tay ra, vốc đầy một nắm lúc nãy, giờ này đã xa lơ xa lắc. Phi cơ chạy vào bãi đậu. Chẳng còn bao lâu nữa. Tay hắn run bắn lên vì hồi hộp. Thưa cô (hay thưa bà? tại sao phải là bà nhỉ. Nàng chưa bao giờ là đàn bà trong trí hắn. Mãi mãi, nàng chỉ là cô gái học chung trường dễ mến, là hình bóng hắn ấp ủ trăm năm) vâng, thưa cô, tôi từ Canada tới. Tôi có một ngạc nhiên dành cho cô. Chắc cô còn nhớ...

Good-bye!” Bà cụ lại chào hắn. Hắn gật đầu chào lại, rồi cúi nhìn thêm một lần nữa tấm hình người con gái năm xưa. Hắn đưa tấm hình lên sát mặt. Những vết nước loang trên khuôn mặt người thiếu nữ. Dấu vết của những môi hôn ướt mèm rượu nếp than, rượu đế và cà phê dạo trước. Hồi đó, thất tình, hắn đâm ra rượu chè be bét. Rượu thấm đầy lục phủ ngũ tạng, hong khô niềm nhung nhớ trong lòng, và bốc hơi ngập trí nhớ hắn, và hắn hôn nàng mềm môi. Những cơn say ấy còn hoài trên mặt nàng; người con gái trắng đen trên giấy, mà rực rỡ sắc màu trong tâm linh hắn. Lúc nào đó, hắn nghĩ, mình sẽ chỉ cho nàng coi những nụ hôn tội nghiệp này.

Hắn nhìn một lần chót tấm hình, trước khi gấp cuốn sách lại. Chuyến này gặp lại, hắn sẽ tỏ tình, sẽ ngỏ lời cầu hôn. Được thì tốt, không thì hắn cũng sẽ trả lại nàng tấm hình ngày xưa. Hắn phải sống cho mình nữa chứ. Mắc mớ gì đuổi bắt mãi một hình bóng. Nàng bây giờ ra sao. Hắn không thể hình dung được. Hồi đó, (hắn chỉ nhớ chuyện hồi đó,) hai người học chung lớp. Nàng ngồi ở bàn ngay trước mặt hắn. Mái tóc dài phủ xuống khoảng lưng thon. Hắn nhớ, thỉnh thoảng nàng kẹp tóc bằng chiếc kẹp đồi mồi mầu nâu thẫm, để hở ra một miếng gáy trắng ngần. Học sinh lớp đệ tứ hồi đó thì đã biết gì đâu.
Hồi đó, nàng lên Sài Gòn học, ở trọ nhà bà con. Hắn yêu thầm nàng từ năm đệ ngũ. Nhà nàng nghèo, dành dụm được mấy chục bạc, nàng đi tiệm, chụp một tấm hình, dự tính gửi về quê cho mẹ. Đứa con trai (hắn đó!) ngồi bàn sau mê nàng quá, lấy trộm bức hình trong một giờ ra chơi, khi sân trường chói lòa ánh nắng mùa xuân. Lúc ấy, những ngày đầu tháng Giêng, mặt trời lúc nào cũng trải xuống vạn vật thứ nắng trong vắt như được đãi lọc qua tấm màn pha lê trong vắt. Ban đầu, hắn dự tính giấu tấm hình, rồi tìm cách trao lại cho nàng để có cớ làm quen.

Khi khám phá tấm hình bị mất, người con gái khóc như mưa gió. Nỗi khổ đau vật vã ấy làm cho người con trai sợ hãi cuống cuồng, và hắn giấu bặt tấm hình ở đáy ngăn tủ sách của mình. Hắn nghe nàng mếu máo kể với bạn rằng đó là tấm hình duy nhất vì nàng không có tiền rửa hình nhiều, và điều làm nàng khổ tâm hơn hết là tấm phim của bức hình nàng đã đánh mất. Nàng theo bạn ra Lăng Ông Bà Chiểu vái van, xin cho tìm lại được tấm hình. Nàng đi coi bói xem tấm hình thất lạc phương nào. Nhưng không ai có thể tìm lại cho nàng tấm hình duy nhất ấy, ngoài hắn. Nhưng nàng thì có bao giờ để ý đến hắn. Con gái mười lăm mười sáu tuổi ở Việt Nam, lòng lúc nào cũng trong vắt như khung trời mùa hạ. Từ đó tấm hình trở thành bảo vật bí mật của riêng hắn. Nhưng bao giờ hắn cũng tự nhủ có dịp sẽ trả lại cho nàng, kèm theo một lời tỏ tình muộn, nhưng còn hơn không trong ý nghĩ của hắn. Thưa cô, thưa cô...

Hắn thong thả đứng dậy, bước ra theo người hành khách cuối cùng. Niềm hân hoan nhảy múa trong lòng. Ơ, mà làm sao anh biết Sương ở đây? Chắc nàng sẽ hỏi như thế. Hắn hình dung ra nụ cười có núm đồng tiền bên má trái của nàng. Tình cờ, (hay duyên nợ không biết nữa,) tôi đọc một tờ báo tiếng Việt, thấy quảng cáo một nhà hàng mang tên Sương. Biết bao nhiêu người cùng tên, làm sao anh biết Sương nào là Sương nào. Nàng sẽ cười rộn rã, như ngày xưa hay cười lúc tụm năm, tụm ba với những cô bạn cùng lớp. Nếu chỉ có một chữ Sương không thôi thì đâu dám chắc, đàng này cả ba chữ trong tên đều trùng, làm sao mà lầm được. Thế anh tìm Sương có chuyện gì không. Dân Canada qua chắc phải có quà đặc biệt. Hắn sẽ ngập ngừng khi nỗi ngậm ngùi ôm cứng lấy trái tim. Tôi có một ngạc nhiên dành cho Sương. Ngạc nhiên thật không? Những cô nữ sinh trung học ở Sài gòn dạo trước nói chuyện duyên dáng, đưa đẩy khôn khéo biết chừng nào. Hắn sẽ loay hoay hoài, với câu nói ngập ngừng ở cửa miệng. Sương có nhớ hồi mình học chung lớp ở Lê Bảo Tịnh không? Chuyện ngày xưa; chuyện ngày xưa bao giờ cũng làm lòng người rộn rã, xôn xao.

Hắn xách túi hành lý, lững thững đi lẫn vào đám hành khách. Không có ai đón hắn. Đã bảo là phải dành cho nàng một ngạc nhiên. Tôi có một ngạc nhiên cho Sương. Những tờ thư trao đổi sáu tháng trời nay, hắn còn giữ kỹ trong cái túi hành lý đeo trên vai. Phi trường rộng mênh mông. Lần đầu tiên bước chân vào đất Mỹ, hắn cảm thấy như đi lạc. Hắn ngoắc và hoang mang chờ đợi. Nhưng những chiếc taxi cứ bị kẻ khác dành mất. Sau cùng hắn cũng có được một chỗ trên chiếc taxi có người tài xế gốc Mễ. Hắn đoán là người Mễ, vì anh ta chào hắn bằng tiếng Tây Ban Nha, “Buenas tardes, señor.”

“Cho tôi tới khách sạn này.” Hắn nói, tay chìa tờ giấy có ghi tên một khách sạn loại rẻ tiền cho người tài xế. Anh ta gật đầu và sang số cho xe chạy vút đi. Los Angeles. Lòng hắn ngập ngụa cảm xúc. Thành phố nổi tiếng của nước Mỹ. Hắn nhìn ra ngoài khung kiếng xe, cố tìm dấu vết của vụ bạo loạn năm nào, nhưng không thấy. Có lẽ xe không chạy qua những khu có bạo động về sắc tộc dạo trước. Hắn liếc nhìn chiếc đồng hồ tính tiền gắn trong xe. Rồi chăm chú nhìn những phố thị lướt đi bên ngoài khung kính. Sương đó phải không? Ngôn đây. Nhớ không? Ngôn học chung trường, chung lớp với Sương hồi đệ tứ, đệ ngũ đây. Ngôn ở Canada qua đây. Nhớ không? Sương có biết là hồi đó tôi yêu Sương không. Hồi đó hả, còn bây giờ thì sao. Bây giờ; bây giờ... cũng thế, Sương à. Phải làm chủ được lời nói của mình.

Bởi vì mấy khi có người chịu ngồi nghe một câu tỏ tình đã cũ.

Xe ngừng trước khách sạn. Hắn trả tiền cho người tài xế, và vội vã lao đi vào cõi hẹn hò huyên náo của thời mới lớn. Chao ơi là nhớ cái lần đi cắm trại ở Lái Thiêu. Sự tình cờ nào đó đã xui khiến cho lũ bạn kéo nhau đi mua trái cây, bỏ lại Ngôn và Sương với công tác trực nhà bếp và an ninh trại. Chao ơi là nhớ con sâu ổi màu xanh béo trục béo tròn co rút, đo đạc cái lưng thon của người con gái. Sương đừng nhúc nhích nghe. Tại sao? Người con gái hỏi với giọng đầy nghi hoặc. Người con trai biết nàng sợ sâu đến ngất đi được, nên không dám nhắc đến tên con vật xanh mướt màu lá mạ đang uốn éo trên lưng cô bạn. Đứng yên, Ngôn làm cái này... Người con trai rón rén bước lại gần người con gái. Không được nghe Ngôn. Không được làm Sương sợ đâu đó. Không đâu, Sương cứ đứng yên, Ngôn... ấy xuống cho.

Hồi đó hắn chưa thể hình dung đến một nụ hôn. Nhưng tay hắn run bắn lên vì hồi hộp. Không biết hắn run vì con sâu hay vì người con gái hắn thương thầm nhớ trộm. Vậy mà lúc hắn đến gần, người con gái tuông chạy như đang trong cuộc chơi trốn tìm hứng thú. Có con sâu sau lưng Sương, biết không. Người con gái cuống cuồng, quay vòng lại, ôm cứng lấy người con trai. Sâu đâu, bắt xuống dùm Sương đi. Bắt đi. Quăng nó đi dùm. Đừng cho Sương trông thấy. Hắn vòng tay qua vai cô bạn, phủi mạnh cho con sâu rụng xuống cỏ. Hắn nhớ thân thể nàng mềm và ấm áp như miếng bánh ướt vừa lấy trong nồi hấp ra. Đó là lần đầu tiên hắn ôm trong tay một vóc dáng con gái.

Nhận chiếc chìa khóa từ tay người quản lý khách sạn, hắn hấp tấp bước vào thang máy. Hắn muốn điện thoại cho nàng lắm rồi, nhưng hắn ngại. Những tờ thư gửi đi, những lá thư nhận về. Tất cả hắn đều mang theo. Tình trạng có vẻ khả quan. Hình như nàng chưa có gia đình. Hay cũng có thể nàng đã ly dị. Cầu trời cho nàng đã ly dị. Hắn xin nàng nửa phần đời còn lại. Sương ơi, nếu như Ngôn ngỏ lời cầu hôn... Ý tưởng làm những ngón tay hắn lúng túng trên ổ khóa. Chiếc chìa khóa màu vàng rơi xuống thảm. Hắn cúi xuống lượm lên, tra lại vào lỗ khóa. Cái xách tay trĩu nặng trên vai. Đói bụng rồi đây. Khách sạn ở ngay trên con đường có cửa tiệm của nàng. Lát nữa, hắn sẽ đến, gọi một món gì đó ăn cho đỡ đói. Xong xuôi đâu đó, hắn sẽ nói với cô (hay cậu) bồi bàn rằng tôi muốn gặp cô chủ tiệm. Nói dùm với cô chủ là có tôi; tên tôi là Ngôn, từ Canada qua thăm cô ấy. Hắn soạn sẵn bản nháp cuộc đối thoại trong đầu. Lát nữa, tắm rửa xong xuôi, hắn sẽ đi bộ lại thăm nàng; như ngày xưa đã đi bộ theo suốt quãng nàng về nhà trọ, năm học đệ tứ.

Hắn đảo một lượt trong căn phòng khách sạn. Căn phòng vuông vắn, bày biện sơ sài một chiếc giường trải khăn trắng, một chiếc bàn và một chiếc ghế dựa kê sát tường. Chiếc máy truyền hình kê trên chiếc kệ gỗ. Hộc tủ treo quần áo. Bồn tắm trong nhà vệ sinh. Những cửa sổ bằng kính hình chữ nhật đóng kín. Sự yên tĩnh trùm lấy đầu óc hắn như tấm mền dày phủ lên đầu người bệnh. Sương có gia đình chưa nhỉ. Hắn nghĩ ngợi vu vơ. Nếu nàng có gia đình rồi, chả bao giờ nàng lại thư đi tin lại với hắn một cách nồng nhiệt suốt sáu tháng trời nay như vậy. Dù sao thì hắn cũng không muốn gỡ bỏ niềm hy vọng mỏng mảnh đang bám cứng lấy hồn hắn như con ốc sên dính queo vào khung cửa kính, để lại những vệt chất nhờn lóng lánh như dấu chân của một thời đã qua, chỉ còn sót lại trong trí nhớ cùn mằn, thô thiển. Nếu nàng có gia đình rồi thì sao nhỉ. Hắn không muốn nghĩ tiếp. Xin phép nghỉ hai tuần không lương. Bỏ tiền mua vé máy bay khứ hồi, lặn lội từ cái xứ sở ngập ngụa tuyết trắng mùa đông, bay qua vùng nắng ấm, tìm lại dấu vết của một thời đã qua, hắn không mong ước gì khác hơn là gặp lại được người của thời mới lớn. Nếu nàng đã có một đời sống riêng, và đời sống riêng ấy ấm êm, hạnh phúc, hắn sẽ chẳng còn lý do nào khác để nói ra một lời tỏ tình đã cũ. Hắn sẽ trả lại nàng tấm hình; cùng với một câu tạ lỗi chân tình. Sương ơi, tôi xin lỗi. Ngôn xin lỗi. Sương có lẽ đã quên tấm hình; Sương chắc không còn xót xa tê tái khi nghĩ tới tấm hình đã mất. Còn tôi, tôi áy náy bao nhiêu năm trời nay. Tôi xin lỗi, xin lỗi... Anh xin lỗi Sương, Sương ơi... Hắn lầm thầm trước tấm gương phòng tắm. Có nên tắm rửa cho tỉnh táo trước khi tìm đến cõi hẹn không nhỉ. Hắn đắn đo suy nghĩ. Sau cùng, hắn quyết định rửa mặt mũi qua loa, cạo râu thêm lần nữa cho mặt mũi sáng sủa, rồi sẽ thong thả cuốc bộ xuống phố, tìm nàng. Tìm người con gái đã đeo đuổi trí nhớ hắn suốt hai chục năm trời nay. Làm sao để Sương tin là anh chỉ nghĩ tới Sương suốt hai chục năm qua nhỉ? Nàng có thể hỏi hắn như thế. Dễ quá Sương ơi. Dĩ nhiên đã có rất nhiều bóng hình những người nữ đã lướt thướt kéo đi qua đời Ngôn; Ngôn cũng đã từng vật vã vì những cuộc tình ngắn hạn đã lỡ. Những đổ vỡ, những vui, những buồn, những hẹn hò, những thèm muốn. Nhưng tất cả cuối cùng cũng như những cơn gió thoảng qua. Chỉ còn lại hình bóng Sương, người con gái có mái tóc đen mướt ngồi trước mặt Ngôn trong lớp học, hồi đệ tứ. Hắn khoác cái áo choàng mỏng lên người. Nhìn mình một lần nữa trong gương, và lững thững bước ra cửa. Tấm hình trắng đen của người con gái nằm gọn trong lòng cuốn sách, cất kỹ trong chiếc túi xách đeo vai nhỏ nhắn bằng da giả thô cứng. Hắn khóa cửa phòng, thong thả bước về phía thang máy. Sương ơi, Ngôn sắp dành cho Sương một ngạc nhiên đây. Ngôn qua thăm bất ngờ, Ngôn sẽ trao tấm hình bất ngờ, Ngôn sẽ nói cho Sương nghe một cách bất ngờ lời tỏ tình đã cũ. Sương sẽ choáng ngợp cảm xúc, Sương sẽ rưng rưng chớp vội cặp mi cong trên đôi con-mắt-biết-liếc-tình-ngay-từ-thuở-còn-đi-học. Mình sẽ ngã vào tay nhau như những đôi tình nhân xa cách bao năm, vừa gặp lại nhau. 

Gió vuốt nhẹ lên má hắn như những ngón tay mềm của một người con gái hiền thục. Không khí mát rượi hơi nước, chẳng bù cho thứ không khí ngột ngạt mùa hè của xứ sở hắn đang sống. Qua khỏi ba ngã tư nhộn nhịp xe cộ, hắn thấy lòng xôn xao như sắp bước vào phòng thi, hồi thi tú tài hai thuở trước. Những hình ảnh lạ lẫm đập vào mắt hắn. Phố xá cũng không khác bên Canada là mấy, nhưng hắn bắt gặp những người đàn ông đeo tấm bảng vẽ nguệch ngoạc những chữ “I will work for food” trên ngực. Những hình ảnh làm tím ngắt lòng hắn. Tôi xin việc làm, để có cơm ăn. Bất chợt, chuyện hắn bỏ bao nhiêu tiền bạc ra, để đi tìm lại một vóc dáng quá khứ trở thành lố bịch. Ý nghĩ làm những bước chân hắn sượng lại. Nhưng hắn đã đứng ngay trước cửa tiệm nàng. Cửa tiệm mang trọn vẹn cái tên của người con gái ngồi trước mặt hắn trong lớp học ngày xưa. Mùi chả nướng bắt ngay lấy mũi hắn, thứ mùi thơm có một chút vị khét của thịt xém lửa than, làm bao tử hắn cồn cào. Tiếng nhạc Việt sống động vọng ra ngoài đường phố. Hắn loay hoay trước cửa mất vài giây. Hai mắt hắn xớn xác tìm kiếm. Loáng thoáng những bóng dáng Á châu bên trong. Chỗ của Sương đây rồi. Phải tiến tới, phải chững chạc bước vào quán, như một vị khách quý. Bởi vì hắn đem đến cho nàng một tin vui. Sương ơi, Ngôn vẫn còn độc thân, và quan trọng nhất là Ngôn vẫn còn yêu Sương như dạo trước. Hắn loay hoay di mũi giày trên lề đường. Đám khách bộ hành lướt qua trước mặt hắn như những chiếc bóng nhệ tênh. Hắn bối rối quá lắm. Tim hắn đập hung hăng như trống trận. Tay hắn bóp ghì lấy cái quai túi xách. Một người thiếu nữ chạy bàn phía bên trong chợt ngó ra, nhìn hắn chăm chăm. Chẳng còn lối thoát nào khác, hắn lúng túng bước vào nhà hàng.

Hắn lựa chỗ khuất phía sau chậu cây cảnh ở góc quán. Mùi đồ ăn thơm nức mũi hắn. Lâu lắm rồi mới được ngửi mùi thịt nướng. Ở Canada, một vài lần ghé phố Tàu ở cách nơi hắn ở hơn một trăm cây số, hắn cũng có ăn thử món thịt nướng, nhưng dường như món ăn bên ấy ít hương vị hơn bên này. Chẳng biết hắn có thiên vị hay không, nhưng món thịt nướng ở đây, nơi quán ăn của Sương, chỉ ngửi mùi thôi là đã thèm đứt ruột.

Cô gái chạy bàn đặt tấm giấy ghi thực đơn lên mặt bàn, khẽ gật đầu với hắn, rồi lặng lẽ bước đi. Hắn xớn xác nhìn theo cái eo thon của người con gái. Gái Cali có thân hình đẹp. Đó là cảm nghĩ đầu tiên của hắn về miền nắng ấm nổi danh vì những cơn địa chấn ấy. Rồi hắn ngập ngừng nhìn xuống tấm giấy bìa cứng ghi tên các món ăn. Tờ giấy bọc plastic có in lộng lẫy những màu sắc lòe loẹt cái tên ba chữ của nàng. Hắn chọn món phở. Tiếng hát của một ca sĩ quen tên rót vào tai hắn những lời ru ngọt.

Lũ kỷ niệm chợt ùa vào lòng hắn. “Thưa ông, dùng gì ạ?” Cô gái chạy bàn đánh thức hắn, ngay khi hắn vừa mới sắp sửa cơn mộng du.

“Cô cho phở tái...” Hắn lúng túng.

“Tô lớn hay tô nhỏ?”

Hắn ướm thử khoảng trống trong cái bao tử chê những món ăn lạ trên máy bay suốt bốn tiếng đồng hồ qua, rồi mạnh dạn trả lời, “Cô cho tô lớn đi.”

“Ông uống gì không?” Cô chạy bàn lại hỏi, tay vẫn chăm chú ghi ghi chép chép vào xấp hóa đơn.

“Cô cho cà phê sữa đá.” Hắn trả lời thật vội.

Người con gái bước đi, lấy theo tấm bìa cứng ghi tên thực đơn. Hắn lại được dịp nhìn theo khoảng lưng tròn và mỏng, đong đưa chiếc váy đầm rộng, xẻ ở phía trên đầu gối, làm cho mỗi bước chân nàng đều lấp ló một chút thịt da trắng muốt. Cô gái biến đi sau khung cửa, hắn buồn tình nhìn thoáng chung quanh. Quán vắng. Không có ai để hắn phải cảm thấy ngượng ngập. Ở góc quán, hai người đàn ông đang lao xao cười nói quanh những chai bia đã cạn trên mặt bàn. “Cho một đĩa tiết canh nữa đi.” Một người gọi với vào phía trong. Hắn nhìn về phía quầy tính tiền. Một người đàn bà ngồi ở đó, lạnh lùng, nghiêm khắc. Chẳng phải Sương đâu. Hắn không tin đó là Sương của gần hai mươi năm về trước. Hắn sợ đôi mắt và chiếc sống mũi sửa quá lố của người đàn bà, khiến nàng có cái nét đanh ác của một bà phủ thủy trong truyện cổ. Chắc đó là người làm thuê, ngồi két tính tiền. Cứ mong là như thế. Nhưng sao lòng hắn sôi lên những cảm giác dị kỳ. Thưa cô, thưa bà... Sương phải không. Tôi có một ngạc nhiên dành cho Sương đây. Tôi là Ngôn. Đầu óc hắn trộn trạo, như chiếc máy xấy trái cây cán ép những mảnh trí tưởng rời rạc. Hắn thấy những ngón tay xương xẩu của mình run rẩy trên mặt bàn.

Cô gái bưng tô phở ra cho hắn. Mùi thơm ngậy bám lấy khứu giác hắn. Nước miếng hắn ứa ra, thèm khát. Lâu lắm mới ăn được một tô phở bắc. Hắn loay hoay ngắt những cọng rau thơm cay nồng.

“Tại sao lại hết nhỉ!” Giọng gay gắt của người đàn ông đập vào tai hắn. Hắn quay qua nhìn. Hai gã đàn ông đang gây gổ với cô gái chạy bàn. Cái giọng lè nhè của gã đàn ông ngà ngà say xuyên vào lỗ tai hắn, như cái dùi nhọn xuyên qua miếng da mỏng. “Thôi thì trả tiền vậy.” Và cả hai cùng đứng dậy, khật khưỡng đi về phía quầy tính tiền.

“Để tôi trả cho.”

“Không, tôi trả mới phải.”

“Để tôi.”

Hai người dành nhau trả tiền bữa nhậu. Hắn thấy nét cau có hằn lên trên cặp lông mày của người đàn bà ngồi trước quầy hàng.

“Để tôi.”

“Tôi mời ông mà. Để tôi trả mới phải.”

“Để cha nó cho người ta trả đi ông ơi,” Người đàn bà chợt ném vào cuộc cãi vã nhì nhằng bằng cái giọng sắc và lạnh, như gió trong cơn bão tuyết ở xứ sở tạm dung của hắn, “Ăn tiền trợ cấp xã hội mà còn bày vẽ quân tử Tầu!”

Người đàn ông bị mắng chợt sựng lại như vừa bị kẻ cướp thúc một họng súng lạnh ngắt vào lưng. Người bạn sững sờ nhìn gã, rồi vội vàng móc bóp, đặt một tờ giấy bạc màu xanh lên mặt bàn. Khi gã lấy lại được bình tĩnh thì người đàn bà đã thối xong tiền cho người bạn. Gã gầm lên uất ức, “Bà đừng ỷ có tiền mà khinh người nghe không. Tôi ăn trợ cấp xã-hội có phiền gì đến bà không? Tôi... tôi sẽ... tôi sẽ...” Lưỡi gã líu lại không biết vì quá giận hay vì quá say.

“Ông muốn tôi gọi cảnh sát không?” Giọng người đàn bà lanh lảnh. Bàn tay nàng vươn ra đặt lên cái điện thoại màu kem trên mặt quầy tính tiền. Gã đàn ông còn toan nói nữa, nhưng bạn gã đã xềnh xệch kéo gã ra cửa.

Lúc hai cái bóng gật gưỡng ấy khuất đi sau khung cửa, hắn nghe tiếng người đàn bà chua chát, “Người ngợm như ăn mày mà cũng lên giọng thầy đời. Cái thứ trên răng dưới dái ấy!”

Hắn không tin được tai mình. Không thể nào tin những điều hắn vừa nghe thấy. Nhưng rõ ràng người đàn bà đã nói những câu ấy. Hắn đâu có nằm mơ. Hắn nghe rõ ràng.

“Cái bọn khố rách áo ôm...” là câu nói sau cùng hắn nghe được từ cái miệng thoa son tím ngắt của người đàn bà. Bất chợt, hắn đặt tay lên cái túi xách có cuốn sách kẹp tấm hình của Sương năm nào. Cái túi xách nằm yên ổn trên mặt ghế bên cạnh hắn. Bây giờ hắn chỉ mong một điều. Lạy trời cho đó không phải là Sương. Không thể là Sương. Đó chỉ là người giúp việc cho Sương. Sương là chủ nhà hàng, ai lại ngồi dài người ra ở quầy tính tiền như thế.

Nhưng cô gái chạy bàn đã đánh tan cơn huyển mộng của hắn, “Chị Sương ơi, thằng chả có trả đủ tiền không vậy?”      

“Sao không.”

“Vậy mà em tưởng...”

“Cứ thử không mà xem. Tao chỉ búng tay một cái...”

Người đàn bà nói bâng quơ, nhưng câu nói của nàng như lưỡi mã tấu, chém nát từng khúc ruột hắn. Tô phở bốc khói trước mặt hắn. Đĩa rau thơm xanh mát mắt. Chai tương đỏ đứng cạnh chai tương đen lơ láo. Đôi đũa nằm ngay ngắn trên miệng tô. Lọ đựng tăm xớ rớ như đứa bé ăn xin không chen vào được đám phát chẩn. Tất cả trở nên lạnh lẽo, ôi mốc trước mặt hắn. Hắn cũng chỉ là một kẻ khố rách áo ôm. Mùi nước béo thơm phức ám lấy mũi hắn, nhưng bao tử hắn không còn thấy cồn cào. Bao tử hắn no ứ những câu tỏ tình của mười mấy năm về trước. Hắn cảm thấy khó chịu như người no hơi. Hắn cần uống ngay một viên thuốc tiêu, để ợ bớt ra những lời tỏ tình đã cũ.

“Cô ơi, làm ơn tính tiền.” Hắn gọi khẽ.

Không ai nghe tiếng hắn. Và lẫn trong cái giọng e dè của chính hắn, dường như có tiếng của người đàn bà, rỉ rả, “Nó muốn yên, tao cho yên. Nó muốn về chầu ông bà ông vải thì tao cho về chầu ông bà ông vải... Liên ơi, ra tính tiền cho khách kìa...”

Đầu óc hắn cuống cuồng làm việc. Hắn cố tìm cho ra lý do tại sao hắn không nếm đến ngay một giọt nước trong tô phở của quán ăn nàng. Thưa cô, thưa cô...

Lúc cô gái chạy bàn đi vào trong lấy tiền ra thối, hắn cúi gầm đầu nhìn chăm chăm vào những cọng rau thơm xanh mướt.

“Tô phở của thằng cha đó còn y nguyên chị Sương à.” Hắn nghe rõ ràng tiếng thì thào của cô gái, lẫn trong tiếng cọt kẹt của chiếc ngăn kéo hộc tủ và tiếng nhạc sập sình. Tim hắn ngưng hẳn lại để tai hắn lắng nghe câu trả lời của bà chủ quán.

Nhưng hắn không nghe được gì ngoài những lời hát nỉ non của người nữ ca sĩ đã lừng danh một thời, về một cuộc tình đã lỡ.

 31/07/94

Trong tập truyện “Lời Tỏ Tình Đã Cũ”, Văn Mới xuất bản tại Hoa Kỳ năm 2000.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.