Hôm nay,  

Cho Qua Mùa Thương Khó

13/08/202100:00:00(Xem: 3220)

 
Con mèo lại tha về một con gián. Vừa nhác trông thấy, bà cụ nhanh tay túm lấy nó. Con mèo ngao lên một tiếng, làm rơi con gián đang ngo ngoe những cái chân ngắn ngủn xuống nền đất gồ ghề. Bà cụ nhanh tay chộp lấy con gián. Con mèo tròn hai con mắt nhìn. Chuyện xảy ra hoài như thế mà lần nào nó cũng tròn mắt nhìn, như thể chuyện đáng ngạc nhiên ấy mới xảy ra lần đầu. Bà cụ khẽ nắm con gián trong lòng bàn tay. Những ngón xương xẩu co lại thành cái lồng hẹp. Bà bước vội ra góc căn chòi lụp sụp. Mở hé nắp vung cái nồi đất đặt cạnh ba hòn gạch của cái bếp lò trơ trụi mớ tro xám, cẩn thận thả con gián vào nồi và nhanh tay đóng vội nắp vung. Cái rãnh nước bên lề con hẻm khô queo đã nửa tháng nay, từ lúc những quán ăn ngoài phố phải đóng cửa ngừa dịch, nên cánh con gián cũng khô, bà cụ yên tâm, không sợ lây nhiễm cái bệnh quỷ quái.

Con mèo nằm dài xuống đất, bắt đầu cái thói quen tỉa tót bộ lông màu vàng sậm. Dường như nó đã quên mất rằng con mồi nó vừa tha từ rãnh nước bên hông căn chòi đã bị chủ nó tước đoạt.

Ở góc đối diện của túp nhà chòi tăm tối vẳng lại giọng nói khàn đục của một người đàn ông, “Phải về thôi.”

“Về đâu?” Giọng một người đàn bà, khao khao như đứt hơi.

“Hỏi vớ vẩn. Về quê chứ về đâu nữa.”

“Làm sao về được?”

“Thì cứ đi.”

“Biết đường nào mà đi.”

“Biết đường tới đây được thì cũng tìm đường về được.”

Bà cụ nhướng hai con mắt đục lờ, nhìn về phía ấy. Trong cái im lặng đặc như keo chợt có tiếng trẻ con khóc ré lên từ ngoài ngõ vọng vào. Rồi tiếng khóc ấy im bặt. Trong này, từ cái góc tù mù của căn chòi chỉ còn tiếng ọ ẹ của đứa bé.

Người đàn ông vừa cố nhét thêm đôi dép Nhật vào cái ba lô cũ, thắt chặt nút dây ở miệng túi vừa tiếp tục nhùng nhằng những câu đối đáp không đầu đuôi với người đàn bà.

“Con bé đói đấy. Sao không cho nó bú.”

“Còn sữa đâu mà bú,” người đàn bà gằn giọng. “Mấy hôm nay nó nhay rát cả vú cũng chẳng còn giọt sữa nào.”

Ôm đứa bé trong tay, người đàn bà khẽ lắc qua lắc lại. Đứa bé khóc. Người đàn bà xoa đầu nó. Tiếng khóc vẫn kéo dài, ngằn ngặt. Rồi tiếng khóc nhỏ dần. Đầu đứa bé rũ ra trên cánh tay người đàn bà. Đứa bé ngủ thiếp đi. Hai con mắt khép hờ.

Bà cụ ngồi thụp xuống nền nhà, lưng dựa vào vách tường lởm chởm vôi vữa mà cái mái của căn lều lụp sụp của họ dựa vào. Hai cánh tay vòng quanh hai đầu gối. Cụ rõi mắt nhìn ra con hẻm trước căn chòi. Mấy ngày nay cả ba người lớn trong căn hộ vất vưởng này cứ hết ngồi lại nằm. Người nào cũng lả đi như miếng giẻ rách. Chỉ con bé Sùi là dù đói mờ mắt, vẫn lăng xăng, và lâu lâu lại lẻn ra phố nhặt nhạnh đồ từ thiện. 

Không ai nói gì với ai một lúc lâu. Không gian im vắng. Lối vào con hẻm mọi ngày náo động tiếng máy xe, tiếng còi và tiếng người. Hôm nay bị bịt cứng bởi cái hàng rào chặn ngang lối đi nên im ắng đến rợn người.

Thiếu phụ chợt xoay qua bà cụ, hỏi nhỏ, “Má có tính về không?”

Bà cụ xoay người lại, nhướng mắt nhìn thiếu phụ, môi mấp máy như toan nói gì đó nhưng lại ngập ngừng. Cái câu hỏi ấm ớ ấy, hai vợ chồng nhà này hỏi cụ không biết bao nhiêu lần rồi.

Lẩn quẩn bên chân bà cụ, con mèo vươn vai, duỗi thẳng người ngáp dài rồi cuộn người nằm co trên nền đất sần sùi.

“Tao già cả rồi về chi nữa?” Bà cụ nói, tay vuốt ve đầu con mèo.

“Ở đây làm sao sống?” Người đàn bà hỏi.

Bà cụ chớp mắt. Bà nhìn xuống con mèo. Cặp môi khô mấp máy. Nhưng không lời nào thốt ra. Bà không có câu trả lời. Con mèo chợt ngao lên một tiếng. Như trả lời thay cho chủ.

“Con mèo kêu hoài,” người đàn ông cằn nhằn. Anh thắt chặt cái túi vải thứ nhì. Rồi ngồi phịch xuống nền đất lạnh, bó gối nhìn quanh.

“Chắc nó cũng đói.” Người đàn bà giải thích rồi cúi xuống đứa bé. Nước mắt khô lại hai bên má nó. Câu nói của người đàn bà làm bà cụ chột dạ. Bà nghĩ tới những con gián mà con mèo lặn lội ngoài rãnh nước dơ bên hông nhà bắt về. Ấy là thú vui của nó. Cái thời đại dịch chưa lây lan. Cái rãnh nước đầy rác rưởi và thức ăn thừa. Mấy tuần nay cơn dịch tràn về như dông như bão. Quán ăn đóng cửa, rãnh nước không còn đồ ăn rơi vãi, người đói, chó mèo cũng đói theo.

Người đàn ông đăm đăm nhìn con mèo.

Như cảm nhận được cái nhìn đượm mùi xào nấu của món thịt mèo trong mắt người đàn ông, bà cụ kéo con mèo vào sát bên cụ. Nhiều hôm, thấy vắng nó, cụ đã cuống lên đi dọc con hẻm nhỏ, réo gọi tên nó. Người đàn ông này và nhiều đứa thanh niên trong xóm vẫn thường kháo nhau về món thịt tiểu hổ rằng ăn vào trẻ thì cường dương, già thì trường thọ.

Con mèo như cũng nhận ra được cái nhìn hau háu của người đàn ông, cong người đứng dậy, lủi thủi đi ra cửa.

Một lát người đàn bà ngẩng lên nhìn bà cụ, lặp lại câu hỏi, “Má ở đây một mình làm sao sống?”

Câu nói ngắn ngủn mà nói xong chị cũng cảm thấy hụt hơi. Chị nhịn đói mấy hôm rồi. Vì vậy mà không còn chút sữa nào trong bầu vú chị cho đứa con chưa đầy một tuổi.

“Có con Sùi nữa mà,” bà cụ nói.

Sùi là con bé mồ côi lên tám. Con bé có tật ngón tay cái sùi lên như dùi trống.

“Con nhỏ đó đi đâu rồi?” Giọng người đàn ông.

“Nó đi lãnh... ơ... đi xin đồ...” Bà cụ nói nhỏ.

“Đồ gì vậy?”

“Đồ ăn.”

“Ở đâu? Ai cho vậy? Sao má không nói tụi con,” người đàn ông lớn giọng hỏi.

“Tao có biết đâu.”

“Không biết sao... má biết...”

“Nghe con Sùi nói có người quăng mấy bó rau ngoài góc đường,” bà cụ giải thích.

“Sao lại dục đồ ăn như vậy,” người đàn bà tròn con mắt ngạc nhiên.

“Đem cho nhưng sợ lây bệnh, sợ công an phạt, sợ đủ thứ...” người đàn ông chêm vào mẩu đối thoại.

Không ai bảo ai nhưng những con mắt chợt sáng lên.

“Vậy là tối nay có đồ ăn rồi.” Người đàn bà thì thầm.

Bà cụ bỗng bật lên một cơn ho. Bốn con mắt của cặp vợ chồng trẻ dán ngay vào cụ. Ho, sốt, đau nhức, khó thở. Cả năm trời nay ai cũng canh chừng những triệu chứng ấy. Mới hôm qua xóm này nghe nói đã có hai người dương tính bị bắt đi cách ly và lăn ra chết trong bệnh viện vì không có máy thở. Người nhà không được tiễn đưa, khóc vỡ cả xóm.

Cụ nén cơn ho, nói lảng, “Vợ chồng bay tính đi thật à?”

Người đàn bà ngần ngừ nhìn chồng. Người chồng quả quyết, “Phải đi chứ. Ở đây không chết bệnh cũng chết đói.”

Bà cụ chớp mắt. Cụ không biết nên khuyên vợ chồng nhà này nên đi hay ở. Sống nương tựa vào nhau bao nhiêu năm trời trong cái chòi lụp sụp này, họ đã thành người nhà từ lâu lắm rồi. Con hẻm nhỏ. Họ chế biến cái mái căn chòi, dựa vào vách tường ngôi nhà của chủ một nhà hàng ăn uống. Chủ nhà rộng lượng cho họ nhờ cái khoảng vuông vách tường ấy, bù lại, những lúc nhà hàng đông khách, họ cho bà cụ cái việc phụ rửa chén bát. Sau mấy lần lọng cọng làm vỡ bát của nhà hàng, chủ không cho cụ phụ rửa chén bát nữa. Không có việc, cụ ở nhà coi đứa bé chưa đủ thôi nôi cho mẹ nó đi bán vé số và bố nó đi khuôn vác lặt vặt, sửa chỗ này, đóng chỗ kia, khiêng cái này, vác cái nọ… cho những cửa tiệm ngoài phố. Ngày ngày cụ xin nước súp ở những tô phở khách ăn không hết về đút cho đứa bé. Và đứa bé gắn bó với cụ hơn cả với mẹ nó.

“Hay là hai đứa bay về trước, để con Còi lại tao giữ cho,” bà cụ cao giọng đề nghị. Đứa bé sinh thiếu tháng, lại thiếu ăn thường xuyên nên mọi người đặt tên Còi cho hợp với tạng người của nó.

Người đàn bà chợt như bừng tỉnh, “Ở đây lấy gì ăn hả má?”

“Nó ăn uống có bao nhiêu... Lôi nó theo dọc đường tội nghiệp nó.”

Lại im lặng. Bà cụ cúi gằm mặt, nhìn đăm đăm nền đất. Cái gì như con kiến nâu bò quanh gần chỗ bà ngồi. Con kiến bò thật nhanh, chạm vào chân bà, nó đổi ngay hướng khác. Nó đi đâu mà hấp tấp thế không biết. Cụ thầm nghĩ, Một lát, cụ ngước lên nhìn hai vợ chồng, người nhà của cụ.

“Thế chừng nào đi?”

“Khuya nay đi,” người đàn ông nhỏ giọng.

Cụ mở lớn hai con mắt kèm nhèm, “Đi vậy tối tăm làm sao thấy đường.”

“Ban đêm mấy đứa ở trạm kiểm soát lăn ra ngủ hết... mình chui qua hàng rào không ai biết.”

Câu nói đem bà cụ trở về với cơn khủng hoảng của thành phố. Ngay chủ của cái nhà hàng mà thỉnh thoảng cụ vẫn được phụ rửa chén bát cũng vừa mới bị phạt vì phát cơm cho người đói. Số tiền phạt khổng lồ khiến họ phải ngưng ngay cái trò từ thiện. Nhà hàng đóng cửa, con rạch nhỏ trước căn chòi của họ không còn ai đổ đồ ăn thừa xuống, dân ăn xin hai bên con rạch đói meo. Và con mèo nhà cụ đành bắt gián về đùa cho qua ngày rồi nhấm nháp cho qua cơn đói. Từ sáng đến giờ cụ đã tịch thu của nó chắc cũng cả chục con gián rồi. Tội nghiệp con mèo đói, bị phổng tay trên hết lần này đến lần khác mà chẳng hiểu tại sao.


“Ngủ chút đi, lấy sức, tối mới đi bộ được.” Người đàn ông nói với người đàn bà. Và loay hoay tháo chiếc chiếu anh ta đã cuộn tròn, buộc phía sau cái ba lô, trải xuống nền đất gồ ghề.

Người đàn bà ôm đứa bé, ngồi mém một bên mép chiếu, dõi mắt nhìn vào khoảng không mờ ảo trước mặt. Chị đang cố hình dung đoạn đường mình sắp đi qua. Bỏ quê cha đất tổ mà đi. Biết bao lâu vẫn hai bàn tay trắng. Lâu lắm không dám bén mảng về nhà. Đường dài hàng trăm cây số. Những dốc đồi cheo leo. Những tảng đá nằm chắn giữa lối mòn. Và mưa với gió dầm dề cái lần lầm lũi vào Nam tìm đất sống.

Bà cụ ngồi dựa vách tường, nhắm hờ hai mắt. Chợt tiếng loạt soạt khiến cụ mở bừng hai mắt. Con mèo vừa chạy vụt vào nhà. Và hình như miệng nó ngậm vật gì đó dài ngoằng, xám xịt. Cụ chống tay đứng dậy. Hai mắt chợt hoa lên nên cụ nhìn không rõ cái vật nằm ngang miệng con mèo. Cụ vội đứng yên cho cơn chóng mặt tan đi. Người ta dạy cụ như thế. Mỗi lần chóng mặt cụ đứng yên hoặc tốt nhất là ngồi hay nằm xuống. Khi những đốm hào quang mờ hẳn đi, cụ bước về phía con mèo. Cụ biết chắc đấy không phải con gián. Gián không to như thế. Cụ đến sát bên con mèo, túm lấy cổ nó. Một con chuột. Con chuột nhắt lúc lắc trong miệng con mèo. Tim cụ đập rộn ràng trong lồng ngực. Hôm nay có thịt ăn rồi. Một tay cụ nắm chặt túm da sau cổ con mèo, tay kia cụ cố gỡ con chuột ra khỏi miệng nó. “Cho tao đi, cho tao đi, Vàng ơi.” Cụ ngọt giọng dỗ dành con mèo. Và cụ gỡ được con chuột ra khỏi những chiếc răng nhọn hoắt của nó.

Con chuột bị cắn ngang người, lại bị quăng quật nên đờ đẫn như sắp chết. Cụ nắm chặt cổ con chuột. Lát nữa con Sùi đem bó rau từ thiện về, bữa tối sẽ có món rau xào, món chuột kho, và món gián rang. Chưa bao giờ họ được ăn uống thịnh soạn như thế. Nhưng mà con bé Sùi đi đâu mà lâu lắc. Cái tật ham chơi của nó, đói vàng mắt ra vẫn ham chơi. Cụ thầm nghĩ. Con chuột đờ ra như sắp chết. Cụ bỏ nó vào trong cái nồi nhôm móp méo và đậy nắp vung lại, chờ con Sùi về tới làm bữa tối.

Đêm vừa chụp xuống thành phố, người đàn ông khoác cái ba lô lên lưng và quàng hai cái túi vải lên hai bên vai, còng lưng, cúi đầu để khỏi chạm mái che căn chòi, bước qua cái khung chữ nhật vẫn được tạm gọi tên là khung cửa.

Đứa bé khóc ngằn ngặt trên tay người đàn bà. Bà cụ nóng ruột giằng lấy đứa bé, “Để bà dỗ cháu của bà nhé. Đưa cháu tôi cho tôi. Tôi biết cách dỗ cháu tôi.”

Bà nói, ôm đứa bé vào lòng, và đút một ngón tay vào miệng nó. Đứa bé ngưng khóc và nhanh chóng mút ngón tay bà cụ. Cụ nhìn thẳng vào hai vợ chồng nhà ấy, “Để nó ở lại đây với tao, khi nào hết dịch vợ chồng bay về, lại mà nhận nó.”

Người đàn bà nhìn mà như không nhìn gì hết. Tia nhìn của chị đờ đẫn, ngờ nghệch.

Cái im lặng lại ùa về phủ kín lấy không gian chập hẹp của căn chòi. Hình ảnh những ngày tháng xa xưa bỗng dưng từng mảng, dạt về trí nhớ gẫy vụn của cụ. Cụ nhớ cụ gặp người thanh niên, cụ nhớ cụ gặp cô gái. Cụ được chủ nhà hàng cho nằm nhờ bên hông nhà họ. Người thanh niên ở đâu tận miền Trung về đây kiếm sống. Cô gái cũng tha phương cầu thực như anh. Cụ xin chủ nhà hàng cho cụ úp cái mái vào vách tường cạnh con mương nhỏ bên hông nhà họ thành cái chòi. Anh thanh niên giúp đóng những cây cột nâng cái mái tôn đan xen với tranh, dựa vào khung vách tường nhà hàng. Cô gái đi bán vé số. Anh thanh niên đi làm thuê. Cả ba về sống chung dưới một mái nhà. Quên nữa, cụ còn rủ được con mèo hoang có bộ lông vàng về làm bạn. Ít lâu sau, cụ cho một con bé mồ côi về ở chung. Con bé tật nguyền bàn tay có ngón cái xùi lên như cái dùi trống và những ngón kia dính cứng vào nhau như bàn chân con vịt bầu.

Ít lâu sau căn chòi rộn ràng tiếng khóc trẻ thơ. Và cụ là người đặt cái tên Còi cho đứa bé, bởi nó cứ thay vì lớn lên thì càng ngày càng teo lại.

Sống với nhau hạnh phúc như thế mà bây giờ phải xa nhau. Ruột nào mà không đứt rời ra từng khúc.

Đứa bé ngưng khóc, chắc nó đã ngủ. Người đàn bà đỡ lấy đứa bé từ tay bà cụ.

“Thôi đi lẹ đi, Tư ơi.” Giọng người đàn ông hối thúc.

Người đàn bà chùi nước mắt, sốc đứa bé trên vai, lầm lũi theo sau.

Ra khỏi cửa, chị quay lại. Con mắt lấp lánh ánh đèn từ ngọn đèn rọi lại từ đầu con ngõ. “Má ở lại bình an nghe má.”

“Tụi bay nhớ chăm sóc cháu tao tử tế.” Bà cụ nói, chỉ tay vào đứa bé cuộn tròn như cái gối vắt từ trước ngực lên ngang vai thiếu phụ.

Chờ hai người thân nhất của cụ bước hẳn vào lòng con hẻm, cụ dặn với theo, “Nhớ đeo khẩu trang!”

“Nhớ mà má.” Người đàn ông cắt ngang giây phút chia ly bằng cái giọng khàn. Và quay vội sang người đàn bà, “Thôi mau đi, Tư.”

Bà cụ nhìn theo hai cái bóng lầm lũi trong con hẻm tăm tối. Hai bóng người lùm sùm ấy dừng lại trước khung kẽm gai treo bảng cảnh cáo những người vi phạm lệnh cách ly. Cái bóng đàn ông vạch rộng sợi kẽm gai thành cái khung nhỏ cho người đàn bà chui qua.

Rồi hình ảnh ấy nhòe đi. Cụ đưa tay chùi mắt để cố nhìn cho rõ. Và cụ thấy lưng bàn tay ướt mèm.

Thật khuya, con bé Sùi mới mò về. Nó thất thểu như cái xác khô, mà linh hồn đã bị tước ra thành trăm ngàn sợi nhỏ.

“Mày đi đâu lâu vậy?”

“Con bị bắt lên phường.”

Chuyện bị bắt lên phường xảy ra như cơm bữa nên chả có gì quan trọng. Chuyện miếng ăn mới là chuyện sống còn. Bà cụ nhìn con bé đăm đăm. Trong bóng tối nhá nhem, hai má nó lem luốc như dính bùn. “Có nhặt được bó rau nào không?”

Con bé lắc đầu, xòe cả hai bàn tay trống trơn, “Cái chị đó cũng bị bắt lên phường luôn rồi.”

“Tao hỏi mày có nhặt được bó rau nào không?”

“Có,” con bé thở hì hạch. “Bị mấy ổng tịch thu, mấy ổng nói rau bỏ người đường là có nhiễm vi rút.”

“Mặt mày sao vậy?”

“Mấy ông đuổi, mấy ổng xô con té...” Con bé nhìn quanh bốn góc căn chòi, “Thiếm Tư đi rồi hả ngoại?”

“Chúng nó đi rồi.”

“Đi đâu dzậy?”

“Về quê chứ đi đâu?”

“Dzià quê làm chi dzậy?”

“Ở đây làm sao sống?” Bà cụ lập lại cái câu hai vợ chồng nhà này vẫn nói với cụ cả tháng nay.

“Bé Còi cũng đi luôn hả ngoại?”

“Không đi thì ở lại với ai?”

Cái mặt con bé méo xệch. Nó mếu máo, giọng ướt sũng, “Bé Còi đi thiệt hả ngoại?”

Bà cụ chạm những ngón tay lên má con bé. Máu nhơm nhớp những đầu ngón tay cụ. Cụ nói lảng, “Sao chảy máu thế này? Mày có sao không, Sùi?”
“Con hổng sao hớt.”

“Lau sạch máu đi, rồi kho thịt...”

Con bé quên ngay nỗi buồn phải xa bé Còi. Hai mắt nó tròn xoe, “Thịt gà hả ngoại?”

“Gà đâu mà gà.”

Con bé vừa đưa tay chùi những vệt máu khô trên má vừa tíu tít, “Thịt ở đâu dzậy ngoại, ai cho mình dzậy, từ thiện phải hông, ngoại?”

Bà cụ níu áo nó, kéo nó vào sát chỗ cái kệ gỗ dùng làm sàn bếp. Dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn rọi vào từ đầu hẻm, cái nồi bằng nhôm sáng lên trong vũng tối. “Thịt trong đó đó.” Bà nói, tay chỉ vào cái nồi. Con chuột nhắt - bà tước đoạt từ con mèo - chẳng biết còn sống không nữa. Ban nãy nó nằm ngay đơ như đã chết từ hồi nào rồi. Nếu muốn có món thịt xào hay kho thì phải làm sớm, để lâu, thịt không còn tươi, ăn mất ngon. Cụ nghĩ và thận trọng mở hé nắp vung.

Một bóng đen từ trong nồi phóng vụt ra, rơi bộp xuống đất và nhanh chóng biến vào bóng đêm.

Con bé Sùi ré lên thảng thốt và thụt lùi thật nhanh sát vào vách tường.

Bà cụ biến ngay thành tượng đá. Nỗi tiếc nuối làm cụ ngẩn cả người. Vậy là sau mười bốn ngày giãn cách dài lê thê, cả người lẫn mèo vẫn không bỏ được miếng thịt nào vào miệng. Và cụ đứng sững ra đấy không biết bao lâu. Mãi sau cụ mới thở dài. Cũng may là trong cái nồi đất kia còn cũng đến cả chục con gián.

Cái bụng lại quặn lên. Nước miếng ứa đầy trong miệng. Cụ đặt lại cái nồi nhôm lên bếp. Cụ nhìn cái nồi đất có lũ gián trong ấy. Cụ nhỏ giọng dặn con bé, “Nhớ đừng mở cái vung nồi đất. Đồ ăn ở trong đó đó.”

Con bé tròn mắt nhìn cụ. Cụ không nói gì thêm. Cụ thầm nghĩ. Không có con mèo chắc hai bà cháu không biết cách nào mà sống cho qua mùa thương khó.

Hoangchinh.com
08/08/2021

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.