Hôm nay,  

Kỷ Niệm và Tỵ Nạn

29/11/202109:16:00(Xem: 3778)
Tran Mong Tu
Cho tôi lại ngày nào

Trăng lên bằng ngọn cau
Me tôi ngồi khâu áo
Bên cây đèn dầu hao
Cha tôi ngồi xem báo
Phố xá vắng hiu hiu
Trong đêm mùa khô ráo
Tôi nghe tiếng còi tàu
- Phạm Duy


Bây giờ là tháng 6, năm dương lịch 2017. Tôi sống ở đất nước này đã 42 năm. Thời gian tôi sống ở đây, lâu hơn thời gian tôi sống ở cả hai miền Bắc, Nam cộng lại. Frank (chồng tôi) có tổ chức một buổi nói chuyện di dân với bạn bè. Anh có một nhóm bạn người Mỹ thuộc nhà thờ St. Louise, nơi chúng tôi tới dự thánh lễ hàng tuần. Nhóm bạn trên dưới mười người, họ đến nhà chúng tôi, có khi mỗi tuần, có khi một tháng hai lần tùy theo thời khóa biểu của cả nhóm.

Tuần qua theo thời sự toàn cầu, Frank mời một vài người bạn di dân, một vài người tỵ nạn như tôi, đến chia sẻ với nhau về kinh nghiệm của một người tỵ nạn. Anh có hỏi tôi là có muốn chia sẻ không? Tôi lắc đầu, tôi chỉ tham dự, ngồi nghe và sẵn sàng mời các bạn anh một bữa ăn sau buổi họp.

Tại sao tôi từ chối không nói? Tôi biết tôi dễ xúc động, khi nhắc về những hồi ức tỵ nạn trước mọi người, thế nào tôi cũng khóc.

Tháng Tư đã đi qua, nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng, nhất là tiếp theo cuối tháng 5, kỷ niệm ngày Trận Vong Chiến Sĩ. Dù có tiệc tùng hàng tuần, bận rộn cả ngày thu dọn nhà cửa, nấu nướng cho con, cháu hay mời bạn, hoặc đến nhà bạn, bao giờ cũng là thời điểm nỗi buồn xa xứ trở về với tôi. Nhớ cha mẹ, nhớ quê hương, nhớ tuổi trẻ đẹp đẽ thơ ngây ở quê nhà, nhớ những mối tình ngắn, mối tình dài đi qua trong đời mình. Tất cả những thứ đó làm tôi khóc. Kỷ niệm như viên kẹo đắng bọc đường, khi ngậm trong miệng, đắng ngọt cùng tan trên lưỡi.

Cả nửa năm nay nước Mỹ xôn xao với những tin tức liên quan đến tỵ nạn. Những tin xấu cho những người tỵ nạn bất hợp pháp (con số này không nhỏ) và làm hoang mang không ít những người hợp pháp. Cái hoang mang của chính những người cũng thuộc thành phần “tỵ nạn” như tôi. Không biết việc mình “chống” có làm tổn thương những người vô tội và việc mình “ủng hộ” có làm thêm rối việc quốc gia.

Như tuần trước, khi ở chợ ra, trời đang nắng, bỗng dưng mưa xuống, nhìn trời mưa cám cảnh xa quê, nước mắt tôi cứ ứa ra không sao cầm được, chạy vội vào trong xe ngồi, một mình thổn thức. Tự nhiên câu thơ viết năm đầu tiên đến Mỹ trở về trong đầu. Mình em một ngôn ngữ / mình em một màu da / mình em một màu mắt / mình em một lệ nhòa.

Tôi không phải là người tỵ nạn duy nhất trên đất nước này, tôi biết rất rõ như thế. Chung quanh tôi, nếu ngay lúc này, tôi níu lại một người vừa ở trong chợ bước ra, hỏi bạn từ nước nào tới, tôi sẽ gặp ngay một người tỵ nạn giống tôi.

Nước Mỹ là một nước hợp chủng và có thể nói truyền thống của họ là mở cửa đón người mọi nơi trên thế giới, bằng cách này hay cách khác đã đến định cư trên quê hương họ. Và chính cung cách mở tay đón nhận này, danh sách nhân tài trên thế giới trong mọi lãnh vực mang quốc tịch Hoa Kỳ được kể là dài nhất (mặc dù gốc của họ thuộc về nước khác.)

Mỗi một người bỏ xứ sở của mình, đến định cư trên một miền đất lạ bằng bất cứ nguyên do nào cũng mang theo bao nhiêu kỷ niệm của quê nhà với mình. Sống xa quê bao nhiêu năm, miền đất mới bao dung hay hắt hủi mình, mỗi người bằng ngọt ngào hay cay đắng đều canh cánh mang trong lòng đầy ắp ký ức của kẻ “lưu vong”.

Chị Maria một phụ nữ Mễ Tây Cơ nói, năm đó chị 16 tuổi, chị sang Mỹ qua đường vượt biên không chính thức, chị được nhét lên một chiếc xe ca, phải đợi 17 năm mới được hợp thức hóa và có giấy tờ cư trú hợp pháp.

Trong 17 năm đó chị sống trong một tình trạng bấp bênh, mặc dù một thời gian sau, chị xin được số An Sinh, chị đi làm, chị đóng thuế, nhưng chị vẫn chưa có thẻ xanh. Chị vẫn là người sống bên lề Xã Hội. Chị mới được thẻ xanh năm ngoái, và chị đã trở về quê nhà một lần thăm mẹ và bà ngoại.

Chị nói khi cầm tấm thẻ xanh trên tay, chị bật khóc. Chị nói thêm, tôi không thể nào quên được cái cảm xúc này, cái kỷ niệm này sẽ theo tôi suốt đời.

Một người khác nói, anh sanh ở Mỹ, nhưng cha mẹ anh là người gốc Canada. Thỉnh thoảng anh cũng theo cha mẹ về Canada thăm họ hàng, nhưng anh không có một chút gì quyến luyến với xứ sở đó khi anh chia tay. Anh có sống ở đó ngày nào của thời thơ dại đâu mà có kỷ niệm. Kỷ niệm tuổi thơ của anh là ở nơi này. Các ngôi trường anh đi qua, để lại trên sân trường dấu giầy, cái bóng tuổi thơ hắt xuống trên bãi cỏ của những trận bóng chày, bóng rổ. Những thành phố gia đình anh cư trú, những liên hệ thâm giao với nhà hàng xóm, rồi mối tình đầu thời mới lớn. Anh kết luận: Đây mới đích thực là quê hương tôi nhưng thật tình trong thâm tâm tôi vẫn nhớ ông nội, ông ngoại của mình là người Gia Nã Đại.

Một người bạn gốc Đức ở tuổi 80 cho biết gia đình anh sang Mỹ từ thời ông nội của anh. Nghĩa là cách đây cả thế kỷ. Vợ anh cũng là người Đức, sang Mỹ từ năm lên 6. Hồi còn cha mẹ, anh có nói một ít câu tiếng Đức ở nhà, bây giờ thì quên hết hoàn toàn, vì không có dịp thực hành. Anh nói, trong cuộc sống hàng ngày, tôi quên hẳn tôi là người Đức, mặc dù tôi chưa bị Alzheimer. Nhưng nếu có ai hỏi tôi về gốc gác của tôi, thì tôi sẵn sàng kể lể cội nguồn, gốc gác mình.

Nước Mỹ có tên là Hiệp Chủng Quốc quả không sai. Những người cư ngụ trên đất này tùy theo ở vào tuổi nào họ tới để họ có thể hòa mình vào thổ ngơi phong tục, văn hóa được bao nhiêu. Càng hòa đồng được nhiều họ càng thấy gắn bó, bén rễ với phần đất này.

Những đứa trẻ lớn lên đầy ắp kỷ niệm với thành phố với trường học, với bạn bè, làm sao mà bắt nó phải tìm về một nơi khác được, nhất là nơi nó chưa được biết bao giờ. Nếu cha mẹ nhắc nhở từ nhỏ, rồi dẫn dắt tìm về, thì đó là tìm về nguồn gốc của tổ tiên chứ không phải tìm về kỷ niệm.

Kỷ niệm là những gì đáng ghi nhớ người ta đã có trong quá khứ, chứ không phải là điều người ta tưởng tượng ra.

Những cha mẹ lưu vong này mang con về thăm quê, cho con học tiếng nước mình, dậy con văn hóa, sử, địa của quê hương mình. Nhiều đứa trẻ lớn lên biết yêu mến tha thiết với nguồn gốc của ông bà, cha mẹ, nhưng chúng cũng lớn lên với kỷ niệm tuổi thơ của vùng đất chúng trưởng thành.

Sức mạnh của kỷ niệm khuyến khích chúng vững mạnh tiến tới tương lai trước mặt.

Trong nhà chúng tôi ngồi quây quần nói chuyện, những cánh cửa sổ mở rộng ra vườn sau, một đàn chim không biết từ đâu kéo tới chúng ríu rít vang cả sân. Tiếng gọi nhau tràn cả vào buồng đang họp mặt, đến nỗi mọi người phải ngưng nói, nhìn ra ngoài sân. Những con chim tìm về vườn cũ, chúng tìm về kỷ niệm. Chúng xa vườn lâu quá rồi.

Bao giờ tôi mới lại trở về quê? Tôi nghe tiếng đập cánh của chúng lao xao trong lồng ngực xa xứ của mình.


Trần Mộng Tú

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.