Hôm nay,  

Màu Xanh Vô Biên

22/12/202109:01:00(Xem: 2921)

Tản mạn

 

ThuPhapTruVu_MauXanhVoBien
Thư pháp của thi sĩ Trụ Vũ riêng tặng Hoàng Quân.


Tập truyện Long Lanh Màu Trời ra đời như một món quà tôi mừng tôi tròn tuổi. Vì tình hình dịch bệnh, sách đặt ở Mỹ gởi sang Đức có thể rất chậm trễ. Anh Lê Hân, nhà xuất bản Nhân Ảnh đề nghị, đặt thử một cuốn trực tiếp qua Amazon. Tôi gọi điện thoại cho con trai, thủ thỉ kể chuyện. Con tôi vui vẻ:

 

– Mẹ để con lo chuyện này. Vì dịch, con không thường xuyên về thăm nhà được. Con sẽ đặt Amazon gởi sách thẳng về nhà mẹ.

 

Nhưng sau đó, con tôi đổi ý, dặn dò:

 

– Mẹ chịu khó chờ nghe. Con muốn mang sách về, trao tận tay cho mẹ.

 

Thời gian sau, tình hình dịch bệnh bớt căng thẳng, các quy định giãn cách xã hội được nới lỏng, gia đình chúng tôi mới có dịp sum họp. Con tôi trao cho tôi cuốn sách màu xanh, giọng ấm áp:

 

– Con thương Mẹ lắm. Mẹ mở sách ra coi liền đi.

 

Con tôi thường tặng sách cho tôi. Bất kể, sách tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đức, con tôi luôn ghi lời đề tặng bằng tiếng Việt. Tôi mân mê cuốn sách trong tay, hồi hộp mở trang đầu. Ô, đây rồi, nét chữ viết tay thương yêu của con. “Hoàng Quân tặng cho Hoàng Quân cuốn sách của Hoàng Quân”. Lời đề tặng của con có mấy chữ đơn sơ, mà tràn đầy ý nghĩa. Ngày trước, con tôi chỉ cảm thấy vui vui, khi tôi nói, tôi dùng tên con làm bút hiệu. Giờ đây, con tôi đã để ý, dõi theo những sinh hoạt viết lách của tôi với tên của con. Cầm đứa con tinh thần trong tay, tôi ôm chầm đứa con bằng xương bằng thịt, lòng hạnh phúc tràn trề.

                                                           

Cả thế giới khốn đốn, chống chỏi với cơn đại dịch. Chẳng ai được là ngoại lệ. Cuộc sống của nhân loại bị xáo trộn hoàn toàn. Mọi người phải đối đầu với nhiều thay đổi. Lẽ thường, gần gũi, gặp gỡ, giao tiếp là những biểu hiện tình cảm của người với người. Nhưng trong tình hình dịch bệnh, người ta phải làm ngược lại. Bà Merkel, thủ tướng nước Đức, “năn nỉ” toàn dân hết lời : “Xin đồng bào hãy vô cùng thận trọng. Trong lúc này, chỉ có khoảng cách mới thật sự thể hiện sự lo lắng, quan tâm lẫn nhau mà thôi. Im Moment ist nur Abstand Ausdruck von Fürsorge.

 

Cũng may, kết nối trên liên mạng tạm thời bù đắp những thiếu thốn tình cảm trong thời gian ngăn sông, cấm chợ. Người ta có thể nhìn nhau, nói chuyện với nhau, dẫu chỉ là sinh hoạt trong thế giới “ảo”. Nhờ những người đưa thư “ảo”: email, messenger, whatsapp... tôi có thể thường xuyên liên lạc với gia đình, người thân, cũng như nhận được những lời thăm hỏi từ bạn bè những cảm nghĩ viết vội sau khi đọc tập truyện Long Lanh Màu Trời.

 

Người bạn cùng lớp thuở trung học chia sẻ: “Trong tập truyện Long Lanh Màu Trời, mình thích nhất tiểu phẩm “Biếc”. Mình rất thích chữ “biếc”, nhất là sau khi đọc câu: Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc/ Em lấy chồng anh tiếc lắm thay. Một chữ “biếc” thả xuống rất là ý nhị và tròn đầy...” Tôi lơ mơ nhớ những ngày tháng học trò khờ dại. Ờ nhỉ, suốt thời gian chung lối thuở ấy, không chừng tôi cũng có lần cuống quýt vân vê tà áo, khi bắt gặp ánh mắt của bạn. Ô, không biết bạn đã có lần nào đêm khuya thao thức viết thư chăng. Tôi chưa kịp qua phút bâng khuâng, bạn vui miệng kể tiếp.

Mẹ của bạn, thấy bạn đọc cuốn sách màu xanh say sưa, chốc chốc lại mỉm cười. Cho nên, bà bảo, cho bà mượn cuốn sách. Là người mê đọc, dẫu có mỏi mắt, đau lưng, bà vẫn đều đặn đọc sách báo. Ít nhất, phải có Kiến Thức Ngày Nay cho bà. Người bạn chuyển lời của mẹ: “Bà Má mình, 84 tuổi rồi, đọc cuốn Long Lanh Màu Trời, khen quá chừng.” Tôi vui lắm, có độc giả tuổi ngoài 80, bỏ thì giờ đọc truyện của mình, và lại khen nữa chứ. Người bạn tủm tỉm (tôi đoán chừng vậy): “Má mình nói, con nhỏ 'tăm tre xuất khẩu' viết truyện vui đáo để. Không biết bà 'đào' đâu ra biệt danh ngộ ghê!” Phải nói là tôi ngạc nhiên, cảm động và thích ngay nhãn hiệu “tăm tre xuất khẩu” bà tặng tôi. Đã hơn bốn chục năm, chắc hẳn bà đã gặp hàng hàng, lớp lớp bạn bè của con mình. Hồi đó, tôi có gặp bà, thì cũng đi chung cả nhóm, trai có, gái có, một bầy học trò lau chau. Vậy mà bà còn nhớ đến tôi, và gọi đích danh nữa chứ. Có lẽ, vì ngày xưa vô duyên, cho nên, ngày nay người bạn chọn tạp bút “Biếc” là “tuyệt phẩm” trong tập truyện. Chứ nếu, hữu duyên, biết đâu, cây tăm tre không xuất khẩu, mà tăm tre giờ đây hầu hạ “bà Má” chu đáo. Bà sẽ là người đọc những bài vở tôi viết chưa ráo mực, chứ chẳng phải chờ in thành sách. Không nghe người bạn nói gần, nói xa, mơ màng gì đến chuyện Nếu anh còn trẻ... anh đàn em hát níu xuân xanh. Chắc hẳn, điều kiện khách quan, chủ quan chẳng cho phép, vì “anh” đàn không hay, và “em” hát cũng dở. Tuy vậy, mấy lời nhắn ngắn gọn của người bạn làm tôi đôi phút bồi hồi, nhớ thuở hai đứa cùng sớm hôm lo sách đèn mấy chục năm trước.

 

Chị bạn tỉ tê trong điện thư. Những tâm tình trong Long Lanh Màu Trời làm chị muốn khóc. Khóc trong nỗi nhớ về tuổi thơ, về thời hoa niên của mình. Nỗi nhớ chạm sâu vào tim. Khóc vì thương mình, khóc cảm ơn Hoàng Quân đã “ru tình trên những dòng chảy của Long Lanh Màu Trời”. Chị bạn gõ rào rào trên bàn phím. Những lá thư điện tử lui tới vèo vèo của chúng tôi như những mẩu phim linh động chiếu cảnh chúng tôi đang cùng nhau lui về chốn cũ, nhìn lại phố nọ, đường kia của tỉnh lỵ bé tí ngày xưa. Chúng tôi ghé qua trường Mẫu Giáo, thăm người thầy đã gò cho chúng tôi học vần, học chữ. Chúng tôi thả bộ lên trường Nữ Trung Học, hòa vào nhóm nữ sinh áo dài trắng, nhí nhảnh cười đùa trong giờ ra chơi. Sắp ngang qua trường Trần Quốc Tuấn, chúng tôi chậm chân, yểu điệu thục nữ. Bởi, thể nào cũng có những ánh mắt trông theo làm chúng tôi lính quýnh. Chúng tôi đến tiệm sách quen, tìm mua số báo Tuổi Ngọc mới nhất. Chúng tôi đến tiệm bánh, mua ô mai, xí muội, mua bịch kẹo bạc hà ngậm cho thông cổ, để lấy giọng chọc ghẹo nhau. Đến Ngã Tư Chính, có trụ tròn ở giữa, bác cảnh sát trong đồng phục đang dang tay chỉ dẫn hướng chạy cho xe cộ qua lại... Những ngày tháng xa lắc, xa lơ ấy bỗng dưng gần gũi, ấm áp quá chừng.

 

Những năm trước, mùa hè tôi thường rong ruổi đó đây. Nhưng bây giờ, tôi chỉ quanh quẩn trong vườn, lúi húi trồng hoa, tỉa lá, nhẩn nha đọc sách dưới tàn cây. Tối mịt, tối mờ, vào bàn phím, tôi mở hộp thư, số lượng điện thư ngày càng tăng. Trừ những thư rác quảng cáo, thư nào tôi cũng hân hoan chào đón. Người ta còn gửi thư cho mình, tức là mình vẫn hiện hữu đâu đó trong danh sách địa chỉ của người gửi. Thư nào thích, đọc kỹ, lưu lại. Thư nào không hấp dẫn, đọc phiên phiến, rồi xóa. Bên cạnh những điện thư hướng dẫn giữ gìn sức khỏe, những thư cảnh cáo các mánh khóe lừa bịp trên liên mạng, hoặc những thông tin kiểu xe cán chó, chó cán xe, thỉnh thoảng có những thư của bạn bè bày tỏ đôi cảm nghĩ, ý tưởng về sân chơi chữ nghĩa. Tôi xếp những điện thư này vào ngăn thư xanh. Xanh như hy vọng, màu xanh đem lại bình yên cho tôi trong tình hình bất an, âu lo đang vây bủa nhân loại.

 

Một sớm mai, cuối tháng Bảy, khi tôi chuẩn bị ra vườn, điện thoại của tôi hiện lên tin nhắn của An Hòa, con gái của thi sĩ Trụ Vũ, người bạn nhỏ tôi chưa gặp mặt, nhưng rất thân. Tuần trước đó, chúng tôi phải nhiều lần thư qua lại. Bởi cuốn sách tôi gởi tặng bác Trụ Vũ lạc đường, loanh quanh hai ba vòng mới đến tay người nhận. Ý nghĩ, cuốn sách của mình được có mặt trong thư phòng của thi sĩ Trụ Vũ, mang niềm vui len lỏi trong tim tôi. Tôi vội mang kính, đọc: “Ba em gửi tặng chị bài thơ ông viết xong chiều hôm qua”. Tôi vuốt nhẹ màn hình. Phía trên của thư pháp, bác Trụ Vũ ghi “Vui tặng cháu Ngọc Thúy”:

 

Nhận ngàn thông điệp như nhau,

Mỗi thông điệp lại một màu xanh riêng.

Màu xanh nào chẳng vô biên,

Màu xanh nào chẳng là Em đang là...

 

Thi sĩ Trụ Vũ bước vào thế giới bút mực nhiều năm trước khi tôi ra đời. Hơn 7 thập niên qua, hẳn bác đã nhận, đã đón biết bao nhiêu sách vở có bề dày, rất nặng ký. Thế mà, bác Trụ Vũ nhìn thấy một màu xanh riêng nơi cuốn sách mỏng mảnh của tôi. Tôi cảm động, đọc đi, đọc lại bài thơ, ngắm hình chụp thư pháp. Niềm vui chan hòa trong hồn tôi, hoa lá như rực rỡ hơn, tiếng bầy chim ríu rít như rộn rã hơn. Một ngày mới bắt đầu thật tuyệt diệu. Dẫu cuộc sống tiếp tục bị dịch bệnh chi phối nặng nề. Dẫu thời kỳ phải “xa mặt” người thân, bạn bè còn kéo dài. Tôi vẫn cảm thấy gần gũi với nhân gian, chẳng hề bận tâm đến nguy cơ “cách lòng”. Tôi hiểu ra, không chỉ tôi yêu người, yêu đời, mà tôi còn được người thương, đời thương nữa. Tôi thấy trời xanh, thật xanh, thật rộng, thật mênh mang.

 

Cám ơn con trai yêu thương Hoàng Quân. Cám ơn anh bạn xưa, chị bạn cũ, những bạn bè thân ái. Cám ơn thi sĩ Trụ Vũ quý mến. Cám ơn nhân gian bao dung. Tôi đang tận hưởng những khoảnh khắc hạnh phúc có thật. Cuộc sống lóng lánh màu xanh vô biên...

 

Hoàng Quân

(12/2021)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.