Hôm nay,  

Đọc Là Nghe Hay Thấy?

28/12/202110:32:00(Xem: 2430)

Bìa TTTN_2

 

Đọc sách là gì? Có bao giờ một ai trong chúng ta tự hỏi như vậy? Câu hỏi ngớ ngẩn. Đọc sách là đọc chữ nghĩa ý tứ trong sách. Đúng không?

Thi sĩ Mark Strand trả lời: “Mực chảy ra khóe miệng. / Không ai sung sướng như ta. / Nhai ngấu nghiến thi ca.” (Eating Poetry.)

Dĩ nhiên, thơ là ẩn dụ. Diễn ý ra văn xuôi, đọc là ăn ngôn ngữ trong sách. Ăn vì đói hiểu biết, vì trí tuệ cần dinh dưỡng, vì tinh thần cần được thuần hóa vẻ đẹp làm người. Ăn để sống. George R.R.Martin nói. “Một người đọc sống cả ngàn đời trước khi chết. Người không bao giờ đọc, sống chỉ một đời.” Chết đói vì thiếu ăn dễ thấy. Chết đói vì thiếu đọc, ít nhận ra.

Đọc sách địa phương và đọc sách ngoại quốc; ăn món ăn quê nhà, ăn món ăn xứ lạ; thám hiểm đất nước và thám hiểm thế giới. Tuy nhiên, không may, các hãng du lịch bị đóng cửa. Đành lên trên mạng tìm hiểu thế giới qua các hình ảnh, video, và bài viết. Đoạn văn gạch bên dưới có nghĩa tương xứng với “đọc sách dịch”. Người đọc nhiều sách dịch qua nhiều ngôn ngữ như nhà văn Anthony Burgess, để lại cho chúng ta kinh nghiệm: “Dịch thuật không chỉ là vấn đề của từ ngữ: Đó là vấn đề làm cho cả một nền văn hóa trở nên dễ hiểu.” (Translation is not a matter of words only: it is a matter of making intelligible a whole culture.) Nói một cách khác, đọc sách dịch là tìm hiểu văn chương vượt qua từ ngữ để đào sâu văn hóa ngoại. Vì lý do này, dịch không phải là chuyển ngữ, vì không chỉ đơn thuần chuyển đổi ngôn ngữ. Câu nói của Burgess đả phá toàn bộ cơ bản của châm ngôn: “dịch là sai.” Dùng để phản đối dịch. Dịch là sai, chủ yếu nói về ý nghĩa giữa bản gốc và bản dịch, trong khi dịch ngày nay xem ý nghĩa ngôn ngữ trong bình diện văn hóa dịch quan trọng hơn. Dịch là một hành động ngu. Không dịch, ngu hơn. Lý do ngu hơn, vì không biết văn hóa thế giới; nghĩa là không thể thông cảm, chia sẻ với người khác màu da, khác địa lý, khác ngôn ngữ; không thể kinh nghiệm được trí tuệ, tâm tư có khả năng kỳ lạ, vượt ra sự hiểu biết của một dân tộc, một cá nhân. Làm người, không ai ở một mình. Ngày xưa, ở với dân tộc, bây giờ, ở với cả thế giới.

Nếu dịch là vấn đề từ ngữ, sát nghĩa, chỉ cần cuốn từ điển dày là đủ. Nếu dịch là “làm cho cả một nền văn hóa trở nên dễ hiểu,” Có nghĩa dịch phải ra ngoài từ điển, hơn nữa, phải theo ý riêng, sở học, và sự chọn lựa của dịch giả, như vậy, dịch đúng là không sát, nếu bắt bẻ, sẽ trở thành sai. Biết sai mà vẫn dịch là ngu. Biết ngu mà vẫn dịch là vì cái gì?

Dịch thuật không phải như đi trên con đường hạn hẹp mà đi trên xa lộ lớn, có nhiều “len”. Muốn đi ở giữa hoặc hai bên hoặc sang len này đổi len kia là tùy người dịch, miễn, xa lộ dẫn đến nơi dự định. Đừng đi lạc ra ngoài. Đừng đi đến một nơi khác. Vì vậy, vào thế kỷ 21, học thuật đặt ra vấn đề dịch thay đổi tùy theo mục đích của bài dịch.

Sự lầm lẫn của người ta về nhiệm vụ cảnh sát công lộ đã quá sâu đậm. Trước công việc bắt phạt những ai phạm luật lưu thông, họ có trách nhiệm khuyến khích và cổ vỏ nhưng người có bằng lái xe và tuân theo luật đi đường. Cảnh sát thừa biết hơn ai hết, luật lệ là lý thuyết và lái xe giỏi có nhiều kiểu khác nhau. Những cảnh sát mang huy hiệu hàn lâm thường chăm bẩm lo phạt lỗi, mà quên ý nghĩa và lợi ích của lưu thông. Cản trở việc đọc sách nên phạt tội gì?  



Còn như, tự cản trở mình đọc sách, phạm tội gì?

Chẳng có tội gì. Nếu có, chắc phải là tội nghiệp.

Đọc để thu hút dinh dưỡng, tất phải nếm đủ ngọt bùi chua cay đắng. Có sách dễ nuốt, có sách khó nhai, sách như The Curtain của Milan Kundera, đọc bảy lần, chưa nát. Philosopher of the Sleepless Night của Lev Shestov, đắng chát hơn nhai vỏ lựu. Cay quá chịu không nổi thì hạ xuống cay vừa vừa, từ Faulkner xuống Hemingway. “Nghĩ trước khi nói. Đọc trước khi nghĩ.” (Think before you speak. Read before you think. Fran Lebowitz.) Thuốc đắng giã tật. Sách chua chát đắng cay giã não.   

Đọc sách là nghe bằng mắt và độc thoại bằng tưởng tượng. Trong thực tế, đọc để hiểu sách, là khi đọc, nghe được âm thanh chữ nghĩa vang lên âm thầm bên trong bộ não, cho đến một lúc, âm thanh đó vang lớn, thu hút sự chú ý, tách lìa người đọc ra khỏi thế giới thường trực, để quyền lực tưởng tượng vừa dẫn giải vừa tiêu hóa những gì ở phía sau chữ nghĩa.

Nghe được chữ gần giống người mù thấy được âm thanh. Hiểu biết đó không còn là kiến thức mà trở thành “kinh nghiệm ý thức” (*) vì kiến thức đó đã được đưa vào bộ tiêu hóa của mạng lưới sống. Tâm tư đó thú vị, say sưa, đôi khi đê mê. Đây không phải là điều gì bí ẩn hoặc mầu nhiệm, chỉ là một chuyện bình thường, tự nhiên, như uống một ly nước lạnh giữa đường đi nóng nực (có khát uống lạnh mới đả); như đang câu cá thấy được cá cắn câu (giật lên, cá trì lại, biết cá lớn, mới đả); như đọc Brief Answers to the Big Questions (kéo ra, Stephen Hawking giữ chặt, giật được ý tưởng hay khỏi tay ông, mới đả).

Gần đây, ngủ mơ, thấy những nhân vật trong truyện dịch đến chơi. Họ khác tác giả, khác thời đại, khác ngôn ngữ, nhưng khi gặp gỡ, tụ họp, chuyện trò, ăn uống, cãi nhau, yêu nhau, đánh lộn … y như người Việt chúng ta vậy, thậm chí họ biết ăn nước mắm. Đời sống ban ngày yên tĩnh, về đêm tưng bừng. Như vậy, làm sao có thể cô đơn?

Họ không bao giờ đến tay không, mỗi khi thăm viếng họ đều mang theo quà: những phẩm chất khác thường trong đời sống. Những món quà trong mơ lại khiến lúc tỉnh thức suy nghĩ, gặm nhắm, bất chợt hiểu ra, đả đời. Đôi khi trong mơ lại có dịp bàn thảo món quà của người này với người kia. Chuyện này trở nên sôi nổi, mở rộng, đào sâu, đồng ý, phản đối … nhưng không ai giận ai, không ai từ ai, không ai chê lén sau lưng. Họ thật sự là những người bạn tốt.

Tôi sẽ gửi những bạn thân thiết của tôi đến bạn đọc. Mong các bạn tiếp đãi họ tử tế. Xin cảm ơn. Tôi chắc rằng họ sẽ mang đến bạn đọc nhiều món quà phẩm chất cao hơn đã tặng tôi.

                                                       
Ngu Yên, 2022.

(*) Albert Eistein: “The only source of knowledge is experience.”

 

Mời đọc và tải xuống miễn phí

Tuyển Tập Truyện Ngắn Thế Giới. Cuốn Hai

214 trang. 19 truyện.

https://www.academia.edu/66142956/Tuy%E1%BB%83n

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
Văn học miền Nam tồn tại mặc dù đã bị bức tử qua chiến dịch đốt sách và cả bắt bớ cầm tù đầy đọa những người cầm bút tự do sau ngày Cộng sản Bắc Việt chiếm lĩnh miền Nam. Chẳng những tồn tại mà nền văn học ấy đã hồi sinh và hiện đang trở thành niềm cảm hứng cho các thế hệ Việt kế tiếp không chỉ ở hải ngoại mà còn cả trong nước. Có lẽ chưa có một nền văn học nào trên thế giới đã có thể thực hiện được những thành quả trong một thời gian ngắn ngủi chưa đầy một thế hệ như vậy. Bài viết này sẽ tổng kết các lý do dẫn đến thành quả của văn học miền Nam trong 20 năm, từ 1954 tới 1975, một trong hai thời kỳ văn học phát triển có thể nói là rực rỡ và phong phú nhất của Việt Nam (sau nền văn học tiền chiến vào đầu thế kỷ 20). Tiếp theo là việc khai tử văn học miền Nam qua chiến dịch đốt và tịch thu các văn nghệ phẩm, cầm tù văn nghệ sĩ của Việt cộng. Và kế là những nỗ lực cá nhân và tự nguyện để phục hồi văn học miền Nam tại hải ngoại và hiện trở thành nguồn cảm hứng cho các thế hệ Việt..
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.