Hôm nay,  

Thú Tiêu Khiển

03/01/202220:10:00(Xem: 3966)

Truyện ngắn

 

fishing

 

 

Thằng Brandon giật cần câu lên, cả một chùm năm sáu con cá giãy giụa, càng cố giãy thì lưỡi câu càng ngập sâu trong họng. Những con cá vùng vẫy trong tuyệt vọng không có đường thoát, số phận bọn chúng kể như kết thúc ở những lưỡi câu này. Cần câu của thằng Brandon gắn loại lưỡi câu chùm, mỗi lưỡi lại gắn một con cá mồi bằng chất dẻo, bọn cá đối, cá mòi… háu ăn bập vào là rồi đời. Mùa này cá nhiều và táo tợn lắm, bởi thế thằng Brandon có lúc kéo lên cả mười mấy con dính chùm, tiếng reo hò tán thưởng từ những người xung quanh càng làm cho Brandon hãnh diện là một cần thủ giỏi.

 

Sean đứng kế bên thằng Brandon nãy giờ, nhìn nó câu mà lòng miên man với những ý nghĩ không đầu không cuối. Chợt Sean liên tưởng đến một đoạn trong kinh Địa Tạng: “Lại có quỷ dạ xoa túm bắt tội nhân trong biển này, lại có quỷ lấy chĩa ba đâm tội nhân rồi dồi lên không, lại có loại quỷ lấy móc câu kéo lưỡi người tội ra...” Những con cá đau đớn giãy giụa vì họng móc vào lưỡi câu, cái chết đối với bọn chúng là chắc chắn rồi, đời vẫn bảo không có gì chắc chắn nhưng duy có cái chết thì chắc chắn! Cái chết của những con cá kia đau đớn quá, những con cá mắc câu cố vùng vẫy vừa đau đớn vừa ngạt vì thiếu nước và oxy, không biết bọn chúng có thần thức không? Nếu có thì sự oán hận của chúng sẽ gia tăng theo mức độ đau đớn mà chúng thọ nhận.

 

Thằng Brandon hạ cần câu trên cầu đi bộ, những con cá nhảy tưng tưng, Brandon gỡ từng con ném vào thùng nước đá. Những con cá chưa chết, chúng lại phải trải qua một ách nạn khác, đó là sự lạnh giá cực độ, lạnh đến đông cứng chúng lại, hàn ngục là đây chứ còn đâu nữa! Trước khi chúng chết, chúng phải trải qua bao khổ nạn mà lẽ ra chúng không phải bị nếu người ta không câu chúng. Chúng vốn sống tung tăng dưới biển chẳng gây hại cho ai, cớ sao con người câu chúng, bắt chúng, hành hạ chúng trước khi ăn thịt chúng? Những con cá lờ đờ dần, cái lạnh đã thấm vào từng tế bào chúng, có nhiều con đã tắt thở nhưng vẫn còn một số thoi thóp ngáp, chúng sẽ bị đông cứng như đá để thịt chúng khỏi bị ươn. Mới chỉ trong phút chốc mà những con cá phải trải qua mấy lần luân hồi. Chúng vừa tung tăng trong làn nước biển xanh kia, phút sau đã bị móc vào những lưỡi câu và kế tiếp bị quẳng vào thùng đá lạnh. Mới phút trước còn tranh mồi, tranh con cái. Giờ cả những con mạnh lẫn những con yếu đều cùng chết bởi những cần thủ trên bờ. Bọn chúng đang bơi lội trong biển này sung sướng lắm, vậy mà giờ nằm trong thùng lạnh tối đen.

 

Dòng suy tư cắt ngang vì một cơn gió mạnh, Sean bước dọc theo cây cầu đi bộ xìa ra biển, những du khách tản bộ như Sean khá nhiều, hình như ai cũng thích thú thấy rõ khi một ai đó giật cần câu lên với những con cá dính câu giãy giụa. Những cần thủ hai bên thành cầu hình như đều là những tay chuyên nghiệp, trang bị như lính ra trận, nào là nón chống nắng, áo dài tay, kiếng chống tia UV, găng tay, vợt, cần câu dự bị, cước, lưỡi câu, thùng đá… Họ im lìm nhẫn nại chờ những cái phao rung động. Họ mang theo ghế ngồi và cả chăn để quấn khi gió lạnh. Sự kiên nhẫn của những cần thủ thât đáng nể, hàng giờ trôi qua, cả buổi ngồi thu lu trên cầu, thậm chí câu cả đêm. Trong số những cần thủ trên cầu đi bộ này có rất nhiều chiến hữu gốc Mít, còn lại là một số Mễ và da trắng. Sean mon men gần một ông già Mỹ trắng, ông ta vui vẻ mở thùng đá cho Sean xem thành quả của mình, có nhiều loại cá mà Sean không biết tên, đặc biệt có những con dài cỡ hai gang tay và to bằng cườm tay, miệng thì nhọn như một mũi dùi. Chúng còn sống và giãy rất mạnh. Sean chợt nảy ra ý nghĩ mua chúng và trả chúng về biển cả.

 

– Ông có thể bán cho tôi số cá này không?

 

 Ông ấy không nhìn Sean, mắt vẫn chăm chăm ở cái phao lập lờ trên mặt nước.

 

– Mầy thích thì tao cho mầy một con, tao không thể bán.

 

– Cảm ơn ông, nhưng tôi muốn mua hết số này, tại sao ông không thể bán?

 

– Tao không thể bán ở chỗ này, giấy phép câu cá của tao chỉ là gỉai trí, nếu tao bán ở đây thì họ sẽ thu hồi giấy phép ngay lập tức!

 

– Ở đây đâu có ai biết, chỉ có ông và tôi thôi!

 

– Nhưng tao không thể bán, cho mầy một hoặc vài con đấy!

 

Sean thôi nài nỉ, biết tính cách người Mỹ là thế! Luật là luật, họ rất tôn trọng luật, thẳng thắn và ngay thật. Trên đường phố cũng thế, dù là nửa đêm hay mờ sáng, dù đường vắng không có xe họ vẫn dừng ở đèn đỏ, không có ma lanh tranh thủ như người xứ mình. Sean bắt một con cá trong thùng đá và cảm ơn ông Mỹ trắng già. Sean đem con cá đến gần cuối cầu đi bộ, thì thầm:

 

– Tao trả mầy về lại biển cả, nhà của mầy ở đấy, bạn bè và gia đình của mầy ở đấy, đừng ham mồi kẻo không lại dính câu nữa nhé! Tao tiếc là không thể cứu được nhiều hơn, đồng loại của mầy đang dính câu và ở trong thùng đá kia.

 

Con cá chạm mặt nước lập tức vẫy đuôi và mất hút ngay trong làn nước xanh như ngọc. Nước biển trong và xanh đẹp quá, từng đàn cá bơi lội quanh chân cầu, chúng nhiều vô số. Cũng trong làn nước trong xanh ấy, những lưỡi câu nhọn hoắt và đầy khía cạnh như mũi tên móc con mồi nhiều màu sắc, bọn cá biển vô tri kia sẽ chết vì những miếng mồi giả này! Đời sống tự nhiên vốn đã khắc nghiệt, cá lớn nuốt cá bé là chuyện thường tình nhưng những lưỡi câu và lưới quét của con người mới là kiếp nạn của chúng. Con người đang khai thác tàn khốc, không có một loài vật nào thoát khỏi bàn tay và miệng lưỡi của con người. Thật tình mà nói thì bàn tay và miệng lưỡi của con người cũng chỉ là thừa hành. Thủ phạm chính vốn vô hình vô tướng nhưng điều khiển tất cả, kẻ vô hình ấy chính là tâm ý của con người, cái tâm tham vô độ, cái tâm sân hận và si mê. Tâm ý khởi lên rồi thì tay chân cứ thế mà hành, miệng lưỡi cứ vậy mà mặc sức ăn hay nói. Những con vật chạy trên rừng, bơi dưới biển, bay trong không trung… đều chết vì con người, nhiều loài trong số bọn chúng đã bị tuyệt diệt và một số đang có nguy cơ biến mất khỏi hành tinh này. Những con cá voi vốn là chúa tể đại dương vậy mà giờ cũng đang đối mặt với sự tuyệt diệt. Số lượng chết vì cần câu của những cần thủ thì không đáng là bao, nhưng vấn đề là ở chỗ chúng chết thảm quá, đau đớn quá.

 

Sean nhìn xa xa ra khơi, biển mênh mông biết nhường nào, đứng trên cây cầu đi bộ gần bờ này mà đã thấy mình quá nhỏ bé huống hồ gì ra ngoài khơi giữa trùng dương. Sean có cảm giác mình cũng không khác gì những con cá nhỏ bé kia, ngay cả những du khách tản bộ và những cần thủ kia cũng như thế. Những con cá mang hình dáng con người và có tư duy, tuy mang hình dáng con người có tư duy nhưng hành xử cũng không khác gì những con cá, vẫn là cá lớn nuốt cá bé, vẫn là những con cá chết vì mồi, hình như ở thế gian này người và vật đều chết vì mồi. Cái khác nhau là mồi của cá chỉ đơn giản là giun, tép hay mồi giả bằng chất dẻo. Mồi của con người thì phong phú hơn, đó là: tiền bạc, sắc dục, danh tiếng, ăn uống, chơi bời... Những cái chết đau đớn, những cái chết chắc chắn, chết vì mồi! Trùng dương bao la nhưng lòng người thì nhỏ bé, gút mắc, khép chặt như hũ nút. Trùng dương đẹp mênh mông với những con tàu lướt sóng lãng mạn nhưng trong lòng ngầm chứa bão tố, sóng lớn vô cùng nguy hiểm. Lòng người nhỏ hẹp nhưng mức độ tham lam thì sự mênh mông của đại dương cũng không đáp ứng nổi. Lòng người luôn loạn động vì tranh đoạt, vì mưu hại nhau để giành những miếng mồi ngũ dục đầy nguy hiểm. Cá lớn nuốt cá bé là tự nhiên kia nhưng người hại người là xã hội này!

 

Đi loanh quanh trên cây cầu, Sean lại đụng mặt một anh chàng Mỹ trắng, anh ta câu được con cá nào cũng cười hớn hở đầy thích thú, có lẽ anh ta tự hào vì thành tích của mình. Có một điều làm cho Sean ngạc nhiên là anh ta gỡ con cá ra khỏi lưỡi câu, hun gió cái chụt, gọi con cá là baby rồi thả lại xuống biển. Thì ra anh ta chỉ câu cho vui, câu giải trí như một môn thể thao chứ không phải để đem về ăn như những cần thủ ở đây. Những con cá dính câu anh chàng này xem ra còn dư phước, tuy bị lưỡi câu móc họng đau đớn và hoảng sợ nhưng chưa đến nỗi mất mạng. Anh chàng Mỹ trắng câu cá làm thú tiêu khiển, đây cũng là thú vui của rất nhiều người ở xứ này. Sean có nói chuyện mấy người Mỹ câu cá rồi thả lại xuống biển thì mấy cần thủ gốc Mít cười: “Mấy thằng đó khùng”. Thật tình mà nói mấy cần thủ gốc Mít sẵn sàng câu cả cá non và những loài bị cấm, những loài được bảo vệ. Ở xứ này quá phong nhiêu, vật chất dư thừa, miếng ăn thức uống quá thừa mứa nhưng lòng tham vẫn không vừa, câu cả cá chưa đủ lớn, câu vượt mức cho phép, đây chỉ là cái tham vặt nhưng gây cái tiếng không tốt cho dân Mít mình.

 

Ở cái xứ giàu mạnh và sung túc này, người ta câu cá như là thú vui tiêu khiển, những tháng hè thì săn bắn ở núi rừng. Những người giàu có còn sang tận châu Phi để săn bắn những động vật hoang dã trong thiên nhiên như: Sư tử, Hưu cao cổ, voi… Bọn họ săn không phải để ăn, chỉ để thõa mãn cái tánh háo danh của mình, chỉ để sự phô bày cái bản ngã ích kỷ mà thôi! Con thú chỉ săn mồi khi đói, con người săn để làm vui. Con cá chỉ nuốt khi đói nhưng con người hại nhau ngay cả khi quá đầy đủ và sung mãn.

 

Bạn bè thường rủ Sean đi câu nhưng Sean từ chối, có người thắc mắc tại sao nhưng Sean không trả lời, cũng có bạn lờ mờ hiểu lý do Sean không đi câu nên từ đó không rủ nữa.

 

Biển mùa hè lộng gió, trời xanh nắng vàng, nước biển như ngọc… đẹp quá! Cuộc đời đẹp quá, cần chi phải câu cá mới vui hay săn bắn mới là tiêu khiển? Sean bơi lội thỏa thích trong làn nước mát trong xanh, Sean lặn một hơi thật dài đến khi cạn hơi mới ngoi lên. Sean chỉ thử nín thở trong môt phút mà thấy ngộp vì thiếu oxy, vậy mà những con cá bị mắc câu, bị đem lên cạn thì nó sẽ ngộp biết dường nào.

 

 

Bãi biển rộng thênh thang, nam thanh nữ tú nằm phơi nắng, nhiều tấm thân kiều diễm vô cùng hấp dẫn. Lòng Sean lay động và trỗi lên sự thèm khát và mong ước chiếm đoạt. Xem ra Sean và loài người cũng như những con cá kia, khó mà cưỡng lại những món mồi dụ hoặc. Xế chiều theo tàu ra khơi xem cá heo, từng bầy cá heo tung tăng bơi lội, chúng phóng lên khỏi mặt nước và nô đùa như những em bé. Những con cá heo vui sướng tận hưởng cuộc sống của loài cá, chúng may mắn hơn những loài cá khác, không có ai săn bắt chúng để ăn thịt, có lẽ nhờ dư phước từ kiếp quá khứ. Chỉ có một số ít bị bắt để làm xiếc hay nhốt trong bể kiếng để khách xem. Những con cá heo sung sướng hơn đồng loại cá ở biển cả. Những con cá heo thông minh và tánh linh khá cao, con người lợi dụng chúng để phục vụ cho mình.

 

Chiều muộn, tàu quay vào bờ, bãi cát vẫn đầy người phơi nắng, những cần thủ câu cá vẫn nhẫn nại ngồi đấy mắt chăm chăm nhìn những cái phao trên mặt nước. Sean về khách sạn nghỉ ngơi, cái nắng, gió biển và muối làm cho da Sean rát bỏng, cả thân mình đỏ rực như tôm luộc. Sean lẩm bẩm:

 

– Thế mà những cần thủ câu cá phơi nắng gió cả ngày và nhiều ngày như thế! Thật khó hiểu nổi, lấy cái đau đớn và chết chóc của vật làm vui, lấy cái khổ của mình làm thú tiêu khiển.”

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 12/21)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.