Hôm nay,  

Hai Truyện Rất Ngắn

28/01/202200:00:00(Xem: 2318)

Minh-họa_Duy-Thanh
Hình minh họa - Tranh Duy Thanh

 

RỒNG
 
“Đi ăn thịt rồng!”
 
“Ừ, đi thì đi. Ăn một lần cho đã thèm rồi chết cũng cam lòng. Em còn nhớ đường đến cái nhà hàng mà ta đã đến mười năm trước không?”
 
“Em nhớ.”
 
*
 
Hẳn nhiên rồng được cho là loài linh thú. Ngày xưa cha ông chúng tôi săn rồng ngoài biển, có khi trên núi. Về sau, rồng bị săn giết nhiều, không kịp sinh đẻ, thế giới sợ chúng tuyệt chủng nên đưa vào sách đỏ.
 
Tôi ở xa về, tôi nghĩ mình sống ngang với lịch sử. Tôi thèm thịt rồng.
 
Nga là đại gia, nó làm giàu vô cùng nhanh nhờ buôn đất đai, chứng khoán, và mọi thứ ám muội khác.
 
Nga nói, “Ngày nay không mấy ai biết vị thịt rồng ta ra sao, các nhà hàng sang trọng trong nước phải mua rồng tận bên Tàu. Thịt rồng Tàu tanh lợm, nhưng thèm thì đành phải ăn.”
 
*
 
Tôi thích nhà hàng này từ lâu, ngay lần đầu tiên về lại Sài Gòn. Tôi thích ngồi trên lầu hơn dưới đất, ngồi ở lan can được ngăn ra thành từng phòng riêng, ghế cao sắp thành một dãy dài, ngó ra trước mặt là những búi dây điện quấn chằng chịt cắt xẻ tầm mắt.
 
Khách ở nhà hàng này nhiều phần là Tây. Bọn Tây trọc phú du lịch muốn thử món lạ nổi tiếng ở châu Á cho biết mùi. Khác với các nhà hàng khác cùng dãy phố, ở đây phục vụ khách từ A đến Z và có thể ngồi đến khuya mấy cũng được.
 
Tôi có tiền, tôi là khách, tức tôi là Thượng đế.
 
Thực đơn ở đây chỉ chuyên bán một thứ thịt, thịt rồng. Thực đơn toàn rồng được chế biến cả chục món: gỏi rồng, tiết canh rồng, bắp rồng hấp, rồng xúc bánh đa, cháo rồng đậu xanh, móng và gân rồng hầm thuốc bắc, cật ruột rồng xào nghệ, lưỡi rồng chưng tương, sườn non rồng nướng mọi, pín và gan rồng chiên tỏi, lẩu rồng ngũ vị, đặc biệt là hai món óc rồng chưng cách mạng và râu rồng hầm lịch sử, hai món sau cùng này chỉ dành cho đại gia cực giàu và sành điệu mới có tiền để thưởng thức.
 
Chúng tôi lên lầu, chọn góc ở bên phải. Nga gọi một bầu Long huyết tửu, bảo bồi bỏ vào xô đá ngâm trước cho lạnh.
 
Sáu em phục vụ lên đứng sắp hàng cho chúng tôi chọn. Tôi chọn em da ngăm, ngực chồi bé xíu thoang thoảng thơm mùi đồng đất. Em kéo ghế ngồi xuống bên phải tôi. Nga sau khi khẽ sờ ngực để thử hàng, chọn em môi dầy và hai cánh tay rậm lông nâu mượt, em này ngồi giữa tôi và Nga.
 
Chủ nhà hàng nói, “Chúng nó là hàng hiếm, còn nguyên chưa khui. Chiều khách quý nhé mấy em.”
 
Nga bảo, “Bọn tôi không cần những dịch vụ đó. Ăn món linh thiêng thì tâm thân phải thanh sạch, nhưng cứ để các em ngồi lại rót rượu gắp mồi thì cũng hay.” Rồi nó quay lại tôi, “Anh theo em ra sau nhà bếp chọn rồng. Phải là rồng ta nhé, không chơi rồng Tàu. Anh thích rồng cái hay rồng đực, non hay già?”
 
 
“Không ăn cái, chọn đực thôi. Rồng non là bao nhiêu tuổi, già thì bao nhiêu tuổi? Có đắt lắm không?”
 
“Non nhất thì ba tháng tuổi, già nhất là một ngàn hai trăm năm. Anh có thể chọn bất cứ con nào anh thích, em đủ tiền để cân tuốt. Đây là những con cuối cùng. Mình không ăn thì bọn khách trú chúng cũng vào mua, chẳng mấy nữa không còn con nào đâu.”
 
Nó nói tiếp, “Thôi, anh thử cả hai con nhé, một con già đúng một ngàn tuổi thì lấy gan, pín, lưỡi, óc và huyết, chứ thịt hẳn là dai lắm, bỏ đi. Còn con non thì lấy con ba tháng tuổi cho mềm; xả thịt làm ba món gỏi, hấp, nướng. Cứ ăn mộc như thế, không tẩm ướp gia vị gì sất, cho gia vị đểu vào chỉ tổ mất đi cái mùi, cái tinh chất nguyên thuỷ. Mà này, con già thì chọn con đen nhé, cái thứ Hắc long chính hiệu mới hay, còn con non thì chọn con vàng, Hoàng long.”
 
Chủ nhà hàng nói, “Nhà hàng chúng tôi không bán hàng đểu như những nơi khác đâu, quý khách đừng ngại. Rồng ta hẳn nhiên là đắt gấp mười rồng Tàu, nhưng đáng tiền lắm. Ở những nơi khác chúng bán rồng ướp lạnh bỏ trong hầm đá, có khi ướp đủ loại hoá chất cả hàng chục năm để giữ cho khỏi thối rữa. Xin chờ giây lát, nhà hàng chúng tôi sẽ cho quý khách xem món thịt của mình được chế biến như thế nào, có xứng với món tiền quý khách đã bỏ ra không.”
 
*
 
Chủ nhà hàng bấm rì-mốt bật chiếc ti-vi 42 in-sơ lên. Theo lời y nói thì đây là một nghi thức phải có cho khách kiểm nghiệm món thịt được đặt.
 
Các em phục vụ rót rượu cho chúng tôi lai rai trước. Rượu pha máu và tinh bột sừng rồng có vị hăng nồng. Chúng tôi cụng ly. Nga bảo tôi hãy chăm chú ngồi xem, nghi thức này chúng mình chỉ được xem có một lần trong cả đời người.
 
Ti-vi hiện ra một đàn tế cao ngất hàng chục thước, phủ thảm đỏ rực, kỳ dị thay đàn tế lại ở trong một không gian hoang vắng quạnh quẽ lạ thường. Lư trầm nghi ngút khói lửa. Sau lư trầm là tượng Long Tổ thân dáng uy nghi; tôi chú mục định hướng thấy đầu tổ phủ phục, khẽ nghiêng về phương Bắc.
Một hồi trống vang lên.
 
Từ bên ngoài vị tiên chỉ của Long Tộc lừ lừ tiến vào, trên hai tay đỡ một cuốn sách cũ. Hồi trống vừa dứt, tiên chỉ nâng cuốn sách lên ngang mày rồi sang sảng đọc.
 
Tôi không hiểu chút gì những lời ông đọc, một thứ cổ ngữ líu lo, thầm đoán rằng có lẽ đó là một bài bùa chú để cầu đảo hay tế lễ gì đó.
 
Kìa, rồng ra.
 
Hai đoàn người vận hoàng y đi theo hàng một dắt rồng ra. Hai con thịt chúng tôi vừa đặt mua trông rúm ró thảm hại vì kinh hoàng trước cái chết mà chúng đoán được.
 
Bọn hoàng y kê hai đầu rồng lên bệ đá rồi bắt đầu nện. Chúng nện bằng búa. Tiếng búa bổ vào xương sọ nghe chan chát lạnh rợn.
 
Nga vỗ tay nói, “Hay lắm ông chủ. Đúng là tiền nào của đó. Nào, cụng với anh em tôi một ly.”
 
Ti-vi tắt.
 
*
 
Tiệc tàn.
 
Nga kêu tính tiền. Nó lấy thẻ nhựa ra cà rồi trao bồi mang xuống, số tiền quá lớn đối với tôi. Nga móc ví lấy ra thêm một xấp tiền mặt bo cho hai em.
 
Tôi ngà ngà say, theo chân Nga bước xuống lầu. Ra tới đường chờ taxi thì tôi bắt đầu ói, ói thốc tháo, ói hết mọi thứ đã dồn vào bụng, khi hết các thứ thức ăn thì ói ra máu. Nga xỏ tay vào túi quần, phun nước bọt, ngó tôi dửng dưng.
 
Tôi ói từng ngụm máu một. Tanh lợm và mặn. Máu không loãng. Không giống thứ máu loãng khi người ta bị đứt tay. Máu đặc sền sệt.
 
Máu rồng, rồng Tàu.


THÁO ĐẦU ĐẶT LÊN TỦ

 
Tôi tháo đầu của mình ra khỏi cổ rồi đặt nó lên cái tủ nhỏ ở đầu giường.
 
Những kẻ vĩ đại thường làm như vậy khi trong đầu của họ chẳng còn gì để tiếp tục suy nghĩ. Tôi để nó đó, cho nó suy nghĩ hoặc không suy nghĩ tuỳ thích, rồi nằm xuống giường.
Khi đầu không còn nữa thì những cái gối trở nên vô dụng. Tuy nhiên, hình như là do tiện tay, tôi vớ một cái gối ôm rồi ôm vào lòng.
 
Khi đầu rời khỏi cổ thì nó thường nghĩ đến những điều bất tử. Một bài thơ bất tử hay một thế giới bất tử hay một tình yêu bất tử, nhưng nó không còn điều khiển được thân thể. Ví dụ, dù muốn lắm nhưng nó không bảo được cái tay nhấc lên gãi vào bên mông trái vừa bị muỗi chích. Ở sự bất khiển dụng đó, tôi tấy lên một vết đỏ, ngứa ngáy.
 
Bây giờ, đầu tôi ngự trên mặt tủ ngó xuống thân thể tôi nằm trên giường.
 
Thân thể trần truồng không có đầu, của một gã đàn ông 47 tuổi, hai tay ôm một cái gối ôm, thì nhìn thật buồn cười. Mọi thứ đều có vẻ không cân đối, và kỳ cục; bất xứng với hình hài mà Thượng Đế tạo ra từ hình ảnh của ngài.
 
Nó có vẻ cô độc. Và buồn.
 
Thứ nỗi buồn tiết ra từ những lỗ chân lông, trong suốt, sền sệt, như một loại chất dẻo không mùi, và dính dáp.
 
Khi đầu rời khỏi cổ thì nhu cầu về dưỡng khí và sự tuần hoàn của máu không còn thúc bách. Những thứ nhu cầu khác, tính từ cổ trở xuống, cũng vậy.
 
Căn hộ tôi ở bị nghiêng, nhưng không phải chỉ riêng một mình nó, mà tổng thể cả cái chung cư nghiêng, nên nó phải nghiêng theo. Khu chung cư này xây cách đây 22 năm, nghiêng đến nỗi nếu để cái quạt lên mặt bàn, chăm chú quan sát một lát, thì sẽ thấy nó chầm chậm trượt đi. Căn hộ nghiêng làm phòng ngủ nghiêng, làm cái giường nghiêng, tất nhiên ảnh hưởng tới thế nằm của thân thể.
 
Khi thân thể nghiêng thì nó trượt dần, dù thật chậm, rồi một lúc nào đó nó sẽ rơi khỏi giường, khi chạm đất, nó sẽ tạo ra một chấn động nhỏ, làm cái tủ khẽ rung lên một chút, một chút thôi.
 
Cái tủ nghiêng, khiến tất cả những ý nghĩ trong cái đầu đặt trên tủ cũng nghiêng, dốc về một phía, theo một mức độ nào đó.
 
Cái đầu tôi trượt dần về phía những ý nghĩ nghiêng, về phía mép tủ, những ý nghĩ trong nó bắt đầu tê dại vì bất lực.
 
Nó sẽ rơi.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.