Hôm nay,  

Tháng Tư kể chuyện

29/03/202220:43:00(Xem: 3928)

Truyện ngắn
30 Thang Tu

 

KẺ CƠ HỘI HÈN HẠ

 

Anh ta là bạn cùng xóm và cùng lớp với anh tôi. Trong khi anh tôi hiền lành thật thà bao nhiêu thì anh ta mưu mô, gian xảo bấy nhiêu. Bạn bè ít ai chơi với anh ta, vì anh ta chỉ chơi với những ai có lợi cho anh ta, hoặc anh ta còn lợi dụng được. Sau 1975, toàn quốc đi xe đạp, nhà tôi đông con, nên sắm bộ phụ tùng sửa xe đạp để anh tôi vá xe, sửa xe cho anh chị em trong nhà. Vậy mà anh ta cứ mang xe đến nhờ anh tôi làm giúp (anh tôi có mở tiệm sửa xe đạp bao giờ đâu nà!!!) Làm xong, anh ta tự nhiên mang về, chưa hề đãi anh tôi một ly trà đá!

 

Thuở đi học, anh ta cũng len lỏi vào Đoàn, rồi luồn lách thế nào mà đi nghĩa vụ quân sự được ở lại làm tại thành phố, lo chuyện hậu cần gì gì đó trong quân đội. Thế là anh ta áp dụng chiến thuật “thượng đội hạ đạp”, câu kết nhau tham nhũng, gian lận, hối lộ, ăn bớt hoặc ăn cướp trắng trợn tiền của bộ đội giải ngũ. (Những người giải ngũ này, cũng là nạn nhân của chế độ, bị ép đi lính, ngày trở về chỉ mong mang chút tiền còm về quê nghèo, nhưng anh ta gây khó dễ, kéo dài thủ tục thời gian, rồi người ta nản chí bỏ cuộc, anh ta ăn tươi nuốt sống tiền của chính đồng đội mình!)

 

Giờ thì anh ta nhiều tuổi Đảng, giàu có, nhưng bạn bè ai cũng lánh xa vì anh ta vẫn tuyên bố chỉ chơi với người có lợi cho anh ta mà thôi.

 

Xã hội Việt Nam, tiếc thay, có khá nhiều loại người như anh ta. Họ không quan tâm chế độ nào, không quan tâm chính trị, miễn họ vinh thân phì gia, mặc kệ những bất công oan trái đói khổ ngoài kia.

 

Vì những kẻ cơ hội hèn hạ này, mà chính quyền cộng sản Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay!

 

PS: Không biết anh ta có đọc được bài này không, nếu có, tôi xin “tặng” thêm hai chữ: Tôi khinh!

 

ÔNG PA-TÊ

 

Trước năm 1975, dãy phố xóm tôi, vì bao quanh bởi những trại quân cụ, truyền tin, quân trang, trại lính, khu gia binh của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, nên nhà nào cũng kinh doanh, buôn bán. Nhà tôi là quán giải khát, nhà kế bên là quán phở, bánh cuốn, rồi tiệm bánh mì, tiệm depot nước đá, bia, nước ngọt, tiệm sinh tố, và cuối dãy là tiệm tạp hoá kiêm bán Pa-tê, thịt nguội, giò lụa.

 

Cuộc sống êm đềm, hạnh phúc cho đến ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm. Cả xóm lao đao vì thời cuộc đảo điên, nhà nhà có người đi tù cải tạo, kinh tế mới, cửa nhà trống hoác trống huơ, lạnh lẽo. Nhưng riêng nhà ông Pa-tê thì không hề hấn gì, mà ngược lại, ông còn được làm chức Phó Chủ Tịch phường. Lúc ấy tôi mới 9, 10 tuổi, chẳng hiểu gì, chỉ nghe lõm bõm người lớn xì xào, rằng nhà ông Pa-tê có lý lịch sạch sẽ nhứt trong xóm, không dính líu gì đến chế độ cũ nên ổng được chức quyền là đương nhiên. Kẻ khác thì hoài nghi, chắc ổng là dân “nằm vùng” chớ không phải tự dưng mà được cái chức ngon cơm vào cái thời “gạo châu củi quế” ấy! 

 

Một ông anh của tôi vừa tuổi 18 bị gọi đi “nghĩa vụ quân sự” cùng lúc nhận giấy báo đậu đại học. Bà chị tôi vội vã mang đến nhà ông Pa-tê một bịch lạp xưởng và một hộp sữa, mong ông dùng quyền thế và tình làng nghĩa xóm, mà giúp cho anh tôi được đi học thay vì đi lính. Nhưng cuối cùng, lạp xưởng và sữa hộp thì họ ăn hết mà anh tôi vẫn phải nhập ngũ. Sau đó gia đình tôi đã cho anh đào ngũ ngay khi chưa xong quân trường, rồi phiêu bạt về miền tây chờ ngày vượt biên. Hoá ra, ông Pa-tê, tuy là phó chủ tịch, cũng chẳng có “ép phê” gì với bên phường đội để can thiệp cho anh tôi.

 

Sau một thời gian khá dài làm phó, rồi chuyển qua vài chức vụ nho nhỏ khác trong Uỷ Ban phường, ông Pa-tê cũng lui về vườn khi chưa đến tuổi hưu, hay là vì đấu đá nhau bên trong nội bộ, có trời mới biết. Ông bán căn nhà ở dãy phố, đưa gia đình về miền cây trái An Phú Đông, ở ẩn, vui thú vườn tược giản đơn. Một vài người hàng xóm thân cận hay qua lại thăm ông, đã hỏi thẳng, rằng ông là “nằm vùng” hay “cách mạng 30/4” (nghĩa là loại trở cờ, gió chiều nào theo chiều nấy). Ông đáp rành mạch:

 

– Nằm vùng con khỉ khô! Trở cờ cũng chẳng phải! Hồi đó cứ hai lần một tuần, tôi thức dậy từ khuya để đi lấy Pa-tê về bỏ mối và bán tại nhà. Có lần, đang chạy xe trên con đường vắng, hai bên đồng trống, bỗng có mấy thằng Việt Cộng nhào ra chặn đường. Tụi nó mặc đồ bà ba đen, quấn khăn rằn, người gầy ốm, da bọc xương, bẩn thỉu như ma đói, dí súng vào đầu tôi, xin Pa-tê thịt nguội, rồi bảo từ nay cứ đi qua đoạn này phải nộp Pa-tê cho chúng, nếu không chúng bắn vỡ sọ, còn nếu đi báo Cảnh Sát thì vợ con tôi cũng chung số phận. Tôi vì lo cho cái gia đình một vợ tám con mà không dám hé răng nửa lời, cứ phải âm thầm cung cấp Pa-tê cho chúng nó cho đến ngày “giải phóng”!

 

Rồi ông nổi sùng, giận dữ, chửi đổng:

 

– Tổ sư cha cái bọn ăn cướp! Tao đâu ngờ vì quá nhút nhát an thân mà tao đã tiếp tay cho chúng mày “giải phóng” Miền Nam đang ấm no, hạnh phúc. Nếu được làm lại từ đầu, tao xin thề, tao thà bỏ nghề chứ không đời nào thông đồng với lũ khỉ rừng tụi bay! Tổ sư cha bay!!!

 

– Kim Loan

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.