Hôm nay,  

Những tưởng gió sẽ cuốn đi

01/04/202211:46:00(Xem: 3584)

Tùy bút

 

Wind 


Mùa đông xuân năm nay, trời lạnh sớm, cái lạnh tái tê kéo dài từng đợt trên khắp cả nước, từ miền cao đến châu thổ. Có những nơi như đèo Ô Qui Hồ, Mẫu Sơn, Y Tý… tuyết rơi trắng xóa. Tuyết nơi miền chí tuyến! Cùng với tiết trời là những đợt gió rét mướt vi vu dễ làm chùng lòng, chẳng dám dậy sớm đi biển. Nên nhớ vẩn vơ. Nhớ gió qua bao nỗi niềm.

 

Gió mậu dịch hay còn gọi là tín phong/ trade winds là gió thổi từ cao áp cận chí tuyến về miền xích đạo. Do trái đất quay, không khí bị chệch hướng vì ảnh hưởng của lực Coriolis, ở Bắc Bán Cầu, gió thổi hướng Đông Bắc-Tây Nam, ở Nam Bán Cầu, theo chiều Đông Nam-Tây Bắc. Gió thổi quanh năm nên trước khi có tàu thủy chạy bằng máy hơi nước, từ cuối thế kỷ 15, gió đã đưa thuyền buồm của các nhà hàng hải từ Âu Châu sang Tân Thế Giới, mở ra thời Phục Hưng với bao điều hay ho mà cũng lắm hệ lụy.

 

Mùa hè nóng bỏng 2020, sau cái chết tức tưởi của anh da màu George Floyd ở Minneapolis, Hoa Kỳ, đám đông cuồng nộ đã xịt sơn lên tượng Kha Luân Bố, người được vinh danh đã tìm ra Châu Mỹ năm 1492. Nhờ gió mùa và la bàn dẫn đường, vậy mà Christopher Colombus vẫn còn lầm miền đất mới Châu Mỹ với Ấn Độ.

 

Vài chục năm trở lại đây, khi biển và đại dương giữ vai trò then chốt trong thế địa chính trị trên bàn cờ thế giới, Trung Hoa muốn khẳng định vai cường quốc hàng hải, vội vàng phủi bụi thời gian, đề cao vai trò của đô đốc Trịnh Hòa qua 7 chuyến hải trình từ 1403 đến 1433. Những ngọn tín phong và gió mùa thuở đó đã đưa Trịnh Hòa đến vùng biển Đông Nam Á, Ấn Độ Dương, bán đảo Ả Rập, vùng Đông Phi. Luồng gió mới mở ra biển cả và đại dương lồng lộng cho đất nước Trung Hoa vốn xưa nay co cụm bên trong Vạn Lý Trường Thành có tên Trịnh Hòa, một Christopher Colombus phương Đông đầy tham vọng. Ông vốn là viên quan thái giám người Ouighur/Duy Ngô Nhĩ của vùng Tân Cương đầy nghi kị và sân hận bây giờ.

 

Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với hai mùa gió Đông Bắc, từ tháng 9 đến tháng 5 và Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 9. Mousson, Monsoon đến từ tiếng Ả Rập mausim nghĩa là mùa. Từ đó mà có chiến thuật giặc mùa. Cuối thế kỷ 18, từ những năm 1790, vào các tháng Năm, Sáu, theo gió mùa Tây nam, qua cửa Cần Giờ, Nguyễn Ánh đưa quân ra Quy Nhơn, phối hợp với các đoàn quân bản địa, uy hiếp và khống chế lực lượng anh em nhà Tây Sơn. Khi gió mùa Đông Bắc tràn về, quân Nguyễn rút vào Nam, chỉ để lại một ít quân sĩ canh giữ. Từ đó, dân gian có câu:

 

Lạy trời cho chóng gió nồm

Để thuyền chúa Nguyễn thuận buồm thẳng ra.

 

Mùa hè, gió mùa Tây Nam băng qua Ấn Độ Dương, biến thành những ngọn gió ẩm, khi thổi đến Trường Sơn thì bị hoành sơn nầy chận lại nên Trường Sơn Tây anh đi/ Thương em thương em bên ấy mưa nhiều...

Bên sườn đông, phía đồng bằng duyên hải miền Trung, đặc biệt là vùng đồng bằng duyên hải Nghệ-Tĩnh-Trị-Thiên, nhiều khi gió còn vượt qua giới hạn trên tiến ra tận Bắc Bộ hay xuống đến Bình Định, Phú Yên. Gió từ sườn đông Trường Sơn thổi sang phần phật từng cơn, từng cơn, kéo dài trong hai ba ngày, có khi đến nửa tháng, gọi là gió Lào. Người Lào hiền hòa, dễ mến, thân thiện, đi du lịch Lào thú vị và nhớ hoài mà gió Lào thì dữ dội.

 

Hãy nghe nhà địa lý học Lê Bá Thảo – Thiên nhiên Việt Nam, NXB Giáo Dục tái bản. 2004, trg 202, mô tả:

 

Khi gió Lào thổi,nhiệt độ tăng cao lên đến 37-39° hay hơn, độ ẩm xuống đến mức thấp nhất, từ 30 đến 45%, độ bốc hơi tăng lên một cách đột ngột làm cây cỏ chết héo, mái tranh khô cong, tre nổ lốp bốp và hồ ao cạn nước.Người ta nghe thấy tiếng gió thổi ào ào trên các lùm cây,tiếng lá khô bay lao xao trên mặt đất và một luồng khí nóng phả vào người lấm tấm rát như kim châm.

 

Nguyễn Tuân trong tùy bút Gió Lào:

 

Bấy giờ là cuối tháng tư âm lịch, gió Lào đêm ngày nối tiếp kêu gào như sinh vật bị cắt họng. Có lúc gió rống lên như đàn chó già sủa bóng. Bị lục địa xua rượt từ Tràng Sơn ra bể Đông, gió chạy một chiều rất nhanh rất bạo qua một cái tỉnh vắng rộng. Còn linh động được ở đây là chỉ có cát và bụi thôi…Gió cứ một điều ù ù thổi từ đất ra biển không một phút nào ngoảnh cổ lại… Đất ùn chướng lũy, uất lên với nhiệt độ gió Lào… Khí trời ong ong, khí người ráo kiệt… Gió từ nẻo lưng đèo ùa về đưa tiếng khóc đàn bà qua các cồn cát trắng, trắng đến mức ngao ngán,qua những rú xanh ruộng cằn trên đó còn phất phơ cái ú ớ mê tín ma Hời…Ôi gió Lào ơi, tôi muốn đưa cả cho gió những ngày đầy hẹn ước của đời tôi, để gió đừng rên kêu trong một buổi, chỉ một buổi thôi!

 

(Dẫn lại theo bản dịch Trần Thiện Đạo. Albert Camus. Tiểu Luận, phần phụ lục. NXB Văn Hóa Thông Tin tái bản. Hà Nội 2004.)

 

Nhìn lại lịch sử Đại Việt, từ hậu bán thế kỷ 14, sau hào quang ba lần chiến thắng Nguyên Mông, nhà Trần bước sang thời suy vong. Từ phương Nam, quân Chiêm Thành tiến vào Đại Việt như chỗ không người, đốt phá kinh thành Thăng Long, vua quan kéo nhau di tản trước, dân lêu bêu tứ tán theo sau. Người anh hùng Chiêm Thành bấy giờ là Chế Bồng Nga. Như chiến thuật của Nguyễn Ánh sau này, Chế Bồng Nga nương theo gió nồm/ gió mùa Tây Nam để tấn công Đại Việt.

 

Tháng 11 năm 1389, trong thế thượng phong trước vua tôi nhà Trần bạc nhược, bất chấp quy luật thời tiết gió mùa Đông Bắc lạnh ẩm vốn xa lạ với đoàn quân phương Nam quen với nắng ấm, Chế Bồng Nga ra lệnh xuất quân. Trong đỉnh điểm mùa gió bấc tháng giêng năm 1390, do hàng thần bội phản, Chế Bồng Nga bị phục kích và trúng đạn chết trên thuyền ở sông Luộc, Hưng Yên, chấm dứt những trang sử vàng son Chiêm Thành. Trong sự thất bại ấy, ngoài lý do Chế Bồng Nga bị chỉ điểm, còn có gió mùa Đông Bắc lạnh cắt da đã cầm chân quân Chiêm Thành. Như tuyết rơi trắng xóa, giá rét căm căm phần nào giải thích sự thất bại của Napoléon I trong chiến dịch tiến quân sang Mạc Tư Khoa năm 1812 mà người Nga gọi là trận Borodino.

 

Có lần dừng chân phía Bắc đèo Cổ Mã, Phú Yên, tôi đành chịu trận trước những đợt gió lồng lộn, hung hãn đang rít lên như tiếng ngựa phi trong bão cát mịt mù. Cát phả vào người, luồn qua những lớp áo, gió và cát thấm rát vào da thịt nghe rờn rợn. Gió không khô nóng như gió Lào. Nơi quán bên đường, sau phút hoàn hồn, hỏi thăm về gió thì được chủ quán trả lời: gió nam c.

 

Gió nam cồ thổi ròng rã ngày đêm không ngừng nghỉ. Không biết gió ở đâu mà nhiều thế, chạy hàng đàn lũ lượt, lồng lộn, la thét, hung hãn tột cùng… Một cái gió mà ruồi muỗi phải sợ núp trốn, nhưng trẻ nhỏ và ngựa lại thích chí vô cùng. Đó là gió nam c. (Ngô Phan Lưu).

 

Tôi đưa khách nhàn du Lai Châu, Điện Biên Phủ, Lào Cai, Yên Bái… nhiều lần mà chưa từng bao giờ cảm nhận “ruồi vàng, bọ chó, gió Than Uyên”. Có lẽ phải là người đã chọn nơi này làm quê hương hay chỉ là nỗi nhớ hắt hiu những người tù khổ sai thuở nào tháng ngày núi rừng biên ải.

 

Trong bài thơ Les yeux d’Elsa/ Đôi mắt Elsa, Louis Aragon viết: “Les vents chassent en vain les chagrins de l’azur/ Gió thổi không nguôi cho tan đi niềm đau nhân thế.

 

Thôi thì hãy nhớ đến những ngọn gió hoan hỉ hơn, những ngọn gió khiến con người xích lại gần  nhau. Buổi sáng hôm nay, mùa đông đến đột nhiên, không báo trước.Vừa mới hôm qua giời hãy còn nắng ấm và hanh…

 

Thế mà qua một đêm mưa rào, trời bỗng đổi ra gió bấc, rồi cái lạnh ở đâu đến làm cho người ta tưởng đang ở giữa mùa đông rét mướt. (Gió đầu mùa, Thạch Lam).

 

Trời muốn trở rét…Ở ngoài có lẽ gió thổi mạnh hơn vì tôi nghe tiếng lá bàng rụng trên đường mau hơn…Gió lên…gió nữa lên…Gió lên…lạy Trời gió lên…Một cơn gió mạnh nổi lên. Lá rụng… một lát đã đầy đường. Mau lên chị ơi… Nhặt cả hai tay chị ạ…Trời sáng rõ lúc nào tôi không đý. Ánh nắng lấp lánh trên những lá bàng bóng như sơn son. Hai đứa bé còn đứng đó buộc mấy gánh lá bàng nhặt được đêm qua. (Đôi bạn, Nhất Linh).

 

Thời đi học, chúng tôi may mắn đọc miên man từ Tự Lực Văn Đoàn, nhóm Sáng Tạo, Văn… đến Kim Dung, các tác giả phương Tây. Albert Camus là một trong những dòng văn chương để đời thuở ấy cho đến tận bây giờ, đặc biệt là tập tiểu luận ngắn Noces/ Giao Cảm với bốn bài tùy bút trải lòng với mặt trời, nắng, biển cả, sa mạc, gió…

 

Gió từ một nẻo trống giữa mấy hòn núi xa ở phía đông thốc ra, chạy ùa từ chân trời mù tịt mà dội hừng hực vào gạch đá và ánh nắng. Gió liên tiếp rít qua phế tích, quay cuồng trong một hý trường đất đá lẫn lộn, chui thọc vào các đống đá khối rỗ mặt, vây trùm các cột trụ để rồi phân tán ra thành bao tiếng rú không ngừng trong công trường trống nóc. Tôi cảm thấy bị dập vùi như một cột buồm… Riêng tôi, đứng trước cảnh vật này, tôi không muốn dối ai, mà cũng không muốn ai dối tôi. (Gió về Djémila, theo bản dịch của Trần Thiện Đạo, Sđd).

 

Cho nên, bao nhiêu năm rồi, vẫn ngại phất phơ gió chiều nào ngả theo chiều đó.

 

Gió đã lên… Trên mặt đất thân yêu nầy, còn biết bao nhiêu là cơn gió như gió nóng Santa Ana, đỏ rực đây đó đất trời California, gió Mistral hay gió Sirocco lồng lộng miền Nam nước Pháp hay cơn gió nhẹ hiu hiu một chiều nào bên sông Hương…

 

– Tống Văn Thụy

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.