Hôm nay,  

Chơi Cờ Carô

10/06/202200:00:00(Xem: 2548)

1. Thoa đứng tỳ tay và cằm trên lan can ngó xuống đường. Một con phố đông về chiều đã hết nắng. Trời chạng vạng. Các cửa tiệm đã lên đèn néon đỏ, xanh lá cây, rất lõa lồ, mời mọc và bẩn thỉu: những quán rượu. Dưới hè đường mấy đứa bé đánh giầy đang ngồi chơi cờ carô trên ô gạch, bằng phấn trắng, yên lặng như những ông già. Mấy người lính Mỹ bước vội vã vào mấy quán rượu. Những tên quán rượu ngồ ngộ và lạ lùng: Blue Moon, Starlight, Princess, San Francisco.


2. Súng nổ rất nhiều ở đằng xa. Đâu đây. Những người nào chết? Ai còn sống? Thoa đứng tỳ tay và cằm trên lan can ngó xuống đường. Hai đứa bé đánh giầy xóa ván cờ vừa đánh, chơi lại ván khác. Yên lặng. Một cặp tình nhân ôm nhau mươn mướt đi phía bên kia đường. Họ nói gì với nhau? Một đứa đàn bà quần áo thiểu não ôm con ngồi dựa vào tường một hiệu Nouveautés, dưới phố. Không phải là một sự xấu hổ như một bức tượng Kẻ ăn mày nào của Rodin, mà là một sự van xin đeo đẳng bực mình. Thoa có biết xấu hổ không đã?


3. Những người nào chết? Bộ mặt chết ra sao? Ở nhà thương khác. Ở nhà khác. Ngoài đường khác. Ngoài mặt trận khác. Tư tưởng cuối cùng của một kẻ chết, hoặc vì đạn, hoặc vì bệnh, hoặc vì chiếc giây thừng, là tư tưởng về gì? Tiếng đại bác quanh Saigon nổ ròn nghe đều như những tiếng timpani trong một hợp tấu khúc cổ điển. Thoa đứng tỳ tay và cằm trên lan can ngó xuống đường. Đã thật là tối.

 

4. Hai đứa bé đánh giầy ngồi chơi cờ như là ông tiên! XXXO OXXOO XOOOX. Thoa nghĩ: có phải trách nhiệm của mình khi đứa bé đó (thằng? con?) bị bỏ rơi ở dưới cống một con đường vắng? Hôm qua Thoa đã tra tự điển chữ responsabilité. Larousse: n.f., obligation de réparer le dommage causé à autrui par soi-même; de supporter le châtiment prévu pour l'infraction qu'on a commise. Réparer ra Iàm sao? Chatiment nào bây giờ? Rồi đứa bé đó (thằng? con?) đã chết rồi. Nó không có một cái tên (nghĩa là một tiếng phát ra từ giây thanh đới), bởi chưa ai gọi nó. Và dommage nào mới được?


5. Tiếng súng đại bác đằng xa kia chẳng hạn. Những vụ plastique liên tiếp chẳng hạn. Đây là một cánh tay. Kia là một mảng đầu. Một mảng áo len, mà người vợ đêm đêm không ngủ để đan cho chồng nằm yên lặng đó, trên hè đường. Thoa đứng tỳ tay và cằm trên lan can một căn gác và ngó xuống đường và nghĩ như thế. Một chiếc taxi đỗ. Cửa mở toang. Một người đàn ông bước xuống. Trả tiền. Cửa xe đóng lại. Chiếc xe vụt đi. Người đàn ông nhìn bên trái bên phải. Bước qua đường. Qua mặt đứa đàn bà ăn mày. Quay trở lại. Móc túi. Cúi xuống, rất trịnh trọng, đặt vào nón đứa đàn bà ăn mày một tờ giấy bạc. Người đàn ông đi. Bóng hắn dưới mấy chiếc đèn néon đỏ, xanh lá cây, dài dặc và yên lặng. Và bí mật. Đứa đàn bà ăn mày rất cẩn thận, gấp tờ giấy bạc nhét vào túi.

 
6. Thoa đứng tỳ tay và cằm trên lan can ngó xuống đường. Quán rượu bên cạnh, bây giờ Thoa mới để ý, đã lên nhạc từ hồi nào. Non… Je ne regrette rien… Đứa nhỏ, thằng người nhỏ đó, bỏ rơi ở cống nào đó, đã chết rồi. Có thể nằm dưới một đống rác Đô Thành nào đó, một loài hữu cơ cả, rất tốt cho cây lúa cây khoai: Phân bón hữu hiệu nhất. Súng nổ ùng ùng ở đằng xa. Đâu đây. Muốn làm nên một viên đạn ta phải dùng tới bao nhiêu sức lao động? Sự tổ chức kinh tế phải là phức tạp lắm.

Chiếc kim của Adam Smith đòi hỏi tới mấy trăm công việc. Nhưng sự thằng người nhỏ đó ra đời chỉ cần tới một đam mê - hay một bản năng tình dục – mấy cái hôn, mấy nhịp mông, một hư vô, vài tia nước phụt mạnh vào một giếng nước đen sâu nhầy nhầy.

 

Và một thời gian qua. 


7. Và một thời gian qua. Hai đứa bé đánh giầy chơi cờ carô yên lặng như hai ông tiên. Dưới đường êm ả. Có đến 8 giờ tối. Những người lính ôm nhau đi dưới phố, cười oang oang.

Saigon, phố A, ngày n, giờ g, phút p, giây g, năm N. Nhỡ tất cả những tài liệu và thời gian trên thế giới này bị mất hết đi, thì bây giờ là bao giờ? Bây giờ là khởi điểm? Vậy thì tại sao có những cánh tay bị chặt đi, những bộ giái bị cắt đi nhét vào miệng? Thằng người nhỏ đó sinh ra bị bỏ rơi dưới cống. Responsabilité, nom féminin, obligation de réparer le dommage... Mais, bon Dieu, quel dommage? Thoa đứng tỳ bụng vào lan can căn gác trên phố đông nọ và nghĩ như thế. Dưới hè đường hai đứa đánh giầy chơi cờ carô mê mải như hai ông tiên! Trong những tiếng đại bác ròn rã như những tiếng timpani trong một hòa tấu khúc cổ điển. Saigon ngày n.


8. Hai chiếc xe taxi đỗ lại cùng một lúc, cùng một hè đường. Hai chiếc cửa xe mở ra cùng một lúc. Trả tiền. Hai người đàn ông đi ngược đường nhau. Hai đứa bé ngẩng đầu lên nhìn rồi lại cúi xuống chơi cờ carô. Bóng hai người gặp nhau một tích tắc. Sự tình cờ tự nhiên ngưng ở đó. Như sự Thoa tỳ tay và cằm trên lan can căn gác nọ. Như sự hai chiếc taxi rồ máy vụt đi cùng một lúc. Bỏ lại căn phố với ánh đèn néon đỏ, xanh lá cây, vắng vẻ, chờ đợi. Như sự hai đứa bé đánh giầy ngồi chơi cờ carô trên hè phố. Như cột đèn điện với cái bóng dài của nó trên đường. Trong Saigon với những đam mê, những tiếng cười, những tiếng khóc, những tiếng nhạc, những bước chân dìu nhau, dính nhau, những hơi thở. Cửa quán rượu mở toang, ba người lính Mỹ ôm nhau ra khỏi quán rượu. Đi đâu? Thoa tỳ bụng lên lan can căn gác nọ và hỏi như thế.


9. Đứa đàn bà ăn mày bây giờ ru con trên tay. Trong bóng nhòa của đèn néon và của bóng tối. Thoa không biết đứa bé ra sao. Một hình mờ mờ. Chắc là mấy tháng. Cửa bar mở toang, nhạc ồ ạt thoát ra ngoài đồng thời với mấy người lính to lớn ôm nhau cười oang oang. Bỗng ở đâu một cột bong bóng dài xanh đỏ vàng chạy tới với một đứa nhỏ bám ở dưới. Tiếng nói lô nhô, xi xô. Một người lính móc tiền trong túi đưa cho đứa nhỏ bám dưới cột bong bóng dài xanh đỏ vàng. Đứa nhỏ nhét tiền vào túi. Mấy người lính tranh nhau cột bong bóng dài xanh đỏ vàng. Một người trong bọn châm điếu thuốc đang hút vào mấy quả bong bóng. Nổ lép bép, lép bép. Hai đứa nhỏ đánh giầy đang chơi cờ carô ngẩng lên nhìn. Mấy người lính cười oang oang bước đi đốt bong bóng kêu lép bép, lép bép. Đứa đàn bà ăn mày ru con, nhịp đều như võng. Bóng cột đèn đài, xao động. Tiếng nổ bong bóng xa dần. Hai đứa nhỏ xóa ván cờ carô và chơi lại. XO XO OXXO.


10. Larousse: Responsabilité, nom féminin, obligation ... mais bon Dieu d'bon Dieu d'bon Dieu! Quelle obligation? Một thằng người vừa đẻ bỏ rơi ở cống. Một cánh tay, một mảng đầu, một mẩu áo len. Một quyển sách. Một lý thuyết. Những tiếng đại bác ùng ùng đâu đây quanh Saigon ngày… tháng... năm… giờ… phút… giây… Một cặp tình nhân tha thiết (họ nói gì?). Một đứa đàn bà ăn mày ru con như võng. Ánh đèn néon lòa nhòa xao động với tiếng nhạc. Thoa tỳ tay và cằm trên lan can nhìn xuống phố, nơi hai đứa nhỏ đánh giầy chơi cờ carô.

 

Rồi Thoa rời lan can quay vào. Thay quần áo. Đi ngủ: Mai còn phải dậy sớm, đi làm.

 

Thạch Chương,

Trích lại từ số báo Ngh Thut s 1, ngày 1-10-1965

Truyện Ngắn của Thạch Chương đăng trên báo Nghệ Thuật số 1, ngày 1-10-1965

Báo Ngh Thut s 1, ngày 1-10-1965

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.