Hôm nay,  

Vẫn Chuyện Con Thúy

14/06/202221:16:00(Xem: 3234)



DTChinh_1
Tranh Đinh Trường Chinh.

 

Con đường đến nơi làm việc của tôi khá nhiêu khê và mất thì giờ. Nhưng tôi cố tập cho mình không ngán ngẩm, khi nghĩ đến đoạn đường gập ghềnh ấy. Tôi đặt ra chương trình “sinh hoạt” để tận dụng thời gian lông bông, bốn tiếng đồng hồ mỗi ngày, từ nhà đến hãng và trở về. Tôi tự phong mình là vận động viên Triathlon, phối hợp ba môn thể thao: đi bộ ngoài đường, ngồi trong xe lửa, đứng trong xe buýt. Biết đâu đây sẽ là hình thức Triathlon được ưa chuộng của thế kỷ 21. Sáng sớm, khi đầu óc còn tỉnh táo, tôi rút bài tập nhạc, học nốt, học kỹ thuật, đánh đàn trong trí. Một lúc sau, thấy bên trái, bên phải, đàng trước, đàng sau, nhiều hành khách gật gà, gật gù, tôi cảm thấy hình như mình cũng đôi con mắt ố mấy lim dim... Thế là tôi cất bài tập, mở nhạc trong điện thoại, ráng nhíp mắt, ngủ “nướng” vài phút trước khi vào hãng.

 

Một thứ sáu nọ, nhờ trục trặc nhỏ, một tình cờ đáng yêu, tôi đã thay đổi chương trình và có được những giây phút trở về dĩ vãng thật diệu kỳ. Khi cầm cây bút quẹt quẹt để mở nhạc trong điện thoại, tôi lại mở nhầm cửa Facebook. Vừa lúc đó, trong Facebook, hiện lên bài viết CON THÚY trong địa chỉ “nhà” của Thao Tran. Đọc điện thư, xem Facebook và liên lạc qua viber là những “công việc” tôi hoàn tất trong giờ nghỉ trưa. Lệ thường, mở nhầm cửa, chỉ cần đóng sầm lại, rồi tìm cửa khác mở. Nhưng Thao Tran là người anh họ của nhỏ bạn thân của tôi. Tựa đề CON THÚY nghe thiệt hấp dẫn. Thế là tôi mở rộng cánh cửa Facebook, bước hẳn vào “sân nhà” của Thao Tran. Tôi đọc say sưa, quên bẵng cái không gian chộn rộn của giờ đi làm theo nhịp sống công nghiệp chung quanh.

 

Theo từng dòng chữ của anh Trần Thảo, ký ức của mấy chục năm trước bỗng nhiên thật sống động. Này là tờ báo Tuổi Hoa với hình bìa cô bé mắt thật to, tay cầm cọng cỏ. Kia là tờ Tuổi Ngọc với các thiếu nữ mình hạc, xương mai. Đây là Anh Chi Yêu Dấu của Đinh Tiến Luyện. Đó là Cô Bé Treo Mùng của Hoàng Ngọc Tuấn. Nào là Con Thúy, Thằng Vũ, Thằng Côn, Chương Còm... Đọc đến đoạn... “Thúy học cùng lớp với người em họ của tôi, dưới tôi một lớp. Và người anh của Thúy cũng là bạn của tôi.” Tôi nghĩ thầm: “Ủa, con Thúy nào có lý lịch giống mình quá vậy ta!”. Cách đây mấy năm, qua diễn đàn của trường Anh Văn IVS, tôi được đọc nhiều bài thơ rất dễ thương của anh Trần Thảo, anh họ của nhỏ bạn thân của tôi. Tôi vặn vẹo:

 

– Ông anh mày làm thơ hay quá trời đất. Sao hồi giờ mày không kể cho tụi tao nghe hử?

Bạn tôi cười lỏn lẻn:

 

– Tại ổng sợ thơ lọt vô mắt tao, như đàn gảy tai trâu. Nên tao có biết đâu để khoe với mày.

Anh Lam của tôi có đôi lần nhắn, có liên lạc với TT, cho anh gởi lời thăm. Tôi đọc tiếp, “Thúy nói giọng Huế nghe ngộ ngộ, hay hay.” Ô, vậy chắc CON THÚY là... con Thúy thiệt rồi. Tôi vẫn chăm chăm nhìn vào màn ảnh nhỏ của điện thoại. Một phần, như có sự lôi kéo mình đọc thật nhanh. Một phần, lại muốn tiện tặn, muốn đánh vần từng chữ, đọc chầm chậm, kẻo... hết. Tôi đang trong cơn mơ màng nhớ lại những ngày tháng thế kỷ trước, thì bị kéo về thực tế trần trụi, khi có tiếng báo trên loa phóng thanh của xe lửa. Frankfurt-Hauptbahnhof-Dieser Zug endet hier. Bitte alle aussteigen. Nhà ga chính của Frankfurt, trạm cuối. Yêu cầu mọi người rời tàu. Tôi ba chân, bốn cẳng nhập vào dòng người trên những thang cuốn để chạy sang cổng khác, đổi tuyến đường xe. Trên con đường còn lại đến hãng, tôi đã đọc đi, đọc lại nhiều lần bài viết CON THÚY. Tôi cảm thấy niềm vui nhẹ nhàng, đằm thắm. Vào văn phòng, tôi vẫn thấy lòng lâng lâng. Mặc kệ công việc bù đầu, bù cổ. Mặc kệ “mụ” đồng nghiệp cà chớn, ỷ ma cũ bắt nạt ma mới. Vào bếp pha cà phê, biết chỉ có một mình, tôi cao hứng hát nho nhỏ, Ô mê ly, mê ly đời ta. Được niềm vui bất ngờ vào thứ sáu. Quả là món quà đặc biệt cho cuối tuần. Giờ nghỉ trưa, tôi viết mấy dòng cám ơn anh Trần Thảo đã tặng cho món quà bất ngờ. Anh bảo, nghe cuộc sống “mới” của tôi vất vả quá. Nên thương cảm em gái, và viết theo cảm xúc của anh. Tôi thích CON THÚY, vì tôi là con Thúy. Nhưng suy cho cùng, ai trong chúng ta cũng vậy. Nếu là “húi cua”, có lúc là thằng Vũ. Nếu là “kẹp tóc”, có khi là con Thúy. Bởi vậy, tôi nghĩ, chắc nhiều người sẽ tìm thấy con Thúy của mình trong CON THÚY của Trần Thảo.

 

CON THÚY thân ái cầm tay tôi, dắt tôi về Quảng Ngãi của những ngày tháng đầu thập niên 70. Tôi đang những năm đầu của trung học đệ nhất cấp. Cách bên trái nhà tôi một căn, có tiệm tạp hóa Trung Tín. Người con trai út trong gia đình, anh Hiền, là bạn với anh Lam tôi. Chỉ là một gia đình láng giềng, chẳng có gì đặc biệt. Cho đến một hôm, anh Lam tôi đưa cho tôi hai bảng tên vải, bảo tôi thêu tên cho anh và cho anh Hiền. Chuyện thêu thùa đối với tôi khó khăn tựa như chuyện lấp biển vá trời. Học bạ của tôi, môn nào cũng được chữ “giỏi”, chữ “khá”. Riêng môn nữ công, lãnh chữ “kém” gọn ơ. Tôi không biết là ông anh tôi ngỡ tôi có hoa tay, hay anh Hiền nhờ thêu. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy mình có một sứ mệnh vô cùng quan trọng. Chăm chút mũi thêu đường thụt lùi mà lòng bâng khuâng, là lạ. Thêu xong, tôi đưa bảng tên cho anh Lam tôi, chứ chưa bao giờ nói chuyện với anh Hiền. Tôi không biết anh Hiền có dùng được bảng tên tôi thêu cho anh hay không. Sau đó, mỗi khi đi ngang nhà anh Hiền, tôi tự dưng có chút ngại ngùng, đôi khi vẩn vơ trong trí, không biết anh có “ngó” mình không. Thời gian ngắn sau, có các anh bạn khác lui tới với anh Lam tôi. Tôi không chú ý nữa. Tôi không còn quan tâm có “ánh mắt trông theo” hay chăng. Nhiệm vụ của tôi bây giờ là sưu tầm thơ tình, để dành sẵn. Mỗi khi anh tôi cần tặng cô nào, tôi cặm cụi chép theo đơn đặt hàng của anh tôi. Có khi tôi kiêm luôn dịch vụ chim xanh, đi trao thơ của ông anh cho các nàng thơ của chàng. Vả lại, chẳng biết tự lúc nào, những mơ mộng của tôi bắt đầu bay “xa”, bay “cao”.

Ở nhà sách của gia đình tôi ngày xưa, những bản nhạc in rời kích thước DIN A4 là một trong những mặt hàng được ưa chuộng. Nhạc được xếp theo vần, treo trên các dây chăng ngang song song trần nhà. Bắt đầu là Ai Lên Xứ Hoa Đào của nhạc sĩ Hoàng Nguyên. Cuối cùng là Yêu của nhạc sĩ Văn Phụng. Khách hàng ngước lên nhìn, thích bài hát nào, cứ giật xuống, đem đến trả tiền. Bài hát Thà Như Giọt Mưa có hình bìa là ca sĩ Duy Quang. Nền hình bìa màu nâu nhạt, tựa đề bài hát màu đỏ, phía dưới có hàng chữ Thơ Nguyễn Tất Nhiên, phổ nhạc Phạm Duy. Tôi thích bài hát ghê lắm. Nhưng không dám xin Mạ. Vì tuổi tôi thuở đó, theo lẽ thường tình, phải yêu Tuổi Mộng Mơ, nghe Thái Hiền ca em ước mơ mơ gì tuổi mười hai, tuổi mười ba... Tuy là con nít, tôi mê mẩn... người từ trăm năm về ngang trường Luật... Mặc dù giữa trường Luật và con bé vừa vào trung học là quãng đường xa ngút ngàn. Lòng thổn thức khi nghe... Ta hỏng tú tài ta hụt tình yêu... Thỉnh thoảng, tôi phụ Mạ tôi xếp nhạc để chuẩn bị treo lên trưng bày. Đã nhiều lần, khi xếp đến  bài hát Thà Như Giọt Mưa, tôi dừng tay lại, ngắm hình bìa bài hát lâu hơn... Lòng reo vui khi nghe “anh” Duy Quang ca Này cô em bắc kỳ nho nhỏ, này cô em tóc demi garçon. Rõ ràng bài hát không liên quan gì đến tôi, cô em “Huế kỳ”, tóc bum bê... Nhưng tôi thương bài hát, từ hồi bé tí, hồi hãy còn lâu mới đến tuổi mười sáu, cho đến khi gần bước vào tuổi sáu mươi, vẫn còn thương. Tôi tìm những tờ giấy đẹp, đem bút máy nắn nót chép nhạc, Em xưa còn thắt bím, nuôi dưỡng thêm ngây thơ,  Anh xưa còn lính quýnh giữa sân trường trao thư... Tôi đã thích chép thơ, chép nhạc từ khi còn rất nhỏ. Vì thích vậy thôi, chớ nào có phải là đúng tâm sự hay đồng cảm gì đâu. Một con bé hỉ mũi còn chưa sạch, làm sao hiểu được... hai năm tình lận đận, hai đứa già hơn xưa...


Buổi chiều cuối tuần, trời vẫn còn tươi nắng của ngày hè muộn. Nơi đây, ở Âu Châu, cách xa chốn cũ của thời thơ ấu hàng ngàn cây số, những ký ức của thế kỷ trước bỗng rộn ràng, tươi rói trong trí. Ngồi giữa cây cỏ trong vườn nhà, ngước nhìn trời xanh lơ qua kẽ lá của tàng cây táo, con Thúy ngày nay bâng khuâng, mơ màng. Có lẽ cũng như con Thúy ngày xưa, của hơn bốn chục năm trước, nó đang tận hưởng những khoảnh khắc hạnh phúc trong cuộc sống. Cám ơn anh Trần Thảo, đã nhờ CON THÚY đem đến cho con Thúy những giây phút chạnh lòng như mới lớn*.

 

Một món quà tuyệt vời, anh Trần Thảo ơi.

 

-- Hoàng Quân

 

*Trích trong bài thơ Nên Sầu Khổ Dịu Dàng của Nguyễn Tất Nhiên

 

Phụ Lục:

 

CON THÚY

 

Năm đó, tôi khoảng mười hai tuổi. Vào tuổi ấy, những bạn cùng trang lứa của tôi vẫn còn đang thích đọc tạp chí Tuổi Hoa của nhà văn Quyên Di. Nhưng cá nhân tôi, hình như tình cảm lãng mạn phát triển khá sớm, tôi mon men tìm đọc tạp chí Tuổi Ngọc của nhà văn Duyên Anh. Chỉ nghe cái tên Tuổi Ngọc, ai cũng hiểu nó dành cho những cô cậu vừa lớn tuổi teen, bắt đầu bước vào một giai đoạn đẹp nhất của đời người: Những chàng trai, cô gái, một hôm nào bỗng thấy hồn mình rung động vì một bóng hình.

 

Vì tiếp xúc với Tuổi Ngọc, nên tôi có dịp đọc những tác phẩm của nhà văn Duyên Anh. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, CON THÚY là truyện tôi đọc đầu tiên. Chính tác phẩm này để lại trong tôi nhiều ấn tượng nhất.

 

CON THÚY thật ra cũng chưa phải là một truyện viết về tình yêu đôi lứa. Bởi những nhân vật chính trong đó cũng ở vào khoảng tuổi của tôi lúc bấy giờ. Nhưng qua cách phân tích tâm lý tuyệt vời của Duyên Anh, ông đã cho người đọc hiểu được những thay đổi tâm lý sinh động của mấy cô, mấy cậu choai choai.

 

Không gian của truyện CON THÚY là tỉnh Thái Bình. Thời gian là khoảng đầu thập niên 40, khi người Nhật đảo chính, thay thế người Pháp, nắm quyền cai trị Đông Dương. Con Thúy và thằng Vũ, hai nhân vật chính của truyện, đã cho tôi cái cảm giác rung động thật sự, khi thấy hình ảnh chính mình xuất hiện trong những mẩu đối thoại, những ánh mắt ngại ngùng, những nhớ mong không đâu vào đâu của nhân vật chính. Có phải tôi cũng đã ở trong một quá trình thay đổi tâm lý để rồi sẽ từ từ trưởng thành?

 

Dĩ nhiên là như thế, nhưng vào thời gian ấy, với lứa tuổi nhóc tì, làm sao tôi có thể hiểu được? Tôi chỉ thấy mình mỗi ngày mỗi lạ, vậy thôi.

 

Rồi tôi cũng lớn dần theo ngày tháng. Khi tôi đã thực sự bước vào tuổi teen với những mơ mộng của một chàng trai mới lớn, truyện CON THÚY vẫn không phai mờ trong tâm trí của tôi. Chỉ là tâm lý của tôi bây giờ đã khác, nghe giống như ai đó viết “Nắng ở đây vẫn là nắng ngày xưa nhưng linh hồn tôi không còn là linh hồn tôi năm trước”. Tôi không còn giống như thằng Vũ ngày xưa của tỉnh lỵ Thái Bình. Tâm lý của tôi vào thời gian này được Huy Cận diễn tả rất gọn trong mấy câu thơ:

 

Vậy đó, bỗng nhiên mà họ lớn

Tuổi hai mươi đến có ai ngờ

Một hôm trận gió tình yêu lại

Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ.

 

Tôi đã yêu và được yêu. Chuyện có từ thời Ông Adam và Bà Eva, chả có gì đáng nói. Tôi chỉ muốn nói đến một góc cạnh khác của đời mình, có liên quan đến CON THÚY của nhà văn Duyên Anh, khiến mỗi lần nghĩ đến, tôi đều cảm thấy một niềm vui nho nhỏ, dễ thương.

Năm tôi học lớp mười, khoảng niên khóa 74– 75, tôi quen một cô gái tên Thúy. Thúy học cùng lớp với người em họ của tôi, dưới tôi một lớp. Người anh của Thúy cũng là bạn của tôi. Có lẽ những liên hệ này khiến tôi quen Thúy. Chứ thật ra tôi và Thúy chẳng có liên hệ gì, gặp nhau cười, chào nhau thế thôi. Thúy rất xinh. Khuôn mặt rất thanh tú, với mái tóc chấm ngang vai, và đôi mắt có màu xanh của những người rất thông minh, pha chút lém lỉnh. Thúy nói giọng Huế nghe ngộ ngộ, hay hay. Trước 1975, tôi chưa bao giờ đặt chân ra xứ Thần Kinh. Nên có thể nói giọng nói của Thúy đã cho tôi cái ấn tượng đầu tiên về miền đất của Hoàng Thành, rất gần về địa lý đối với xứ Quảng quê tôi, nhưng rất xa xôi đối với cá nhân tôi thuở ấy.

 

Sau năm 1975, xảy bao nhiêu dâu biển của một cuộc đổi đời. Trong khoảng hơn một năm sau đó, tôi vẫn còn thỉnh thoảng gặp Thúy trên đường phố xứ Quảng. Nhưng rồi bẵng đi một dạo, tôi không còn gặp lại Thúy nữa. Tôi không biết mà cũng không hề thắc mắc. Bởi vì tôi đối với Thúy như một người anh đối với cô em gái. Tôi không mơ mộng tình cảm gì với cô bé rất xinh này, nên cũng chẳng rầu rĩ hát ca khúc Thúy đã đi rồi. 

 

Sau này, khi tình cờ gặp lại trên email, tôi rất vui, khi biết Thúy đã định cư rất lâu ở Tây Đức. Qua đó, tôi mới biết khoảng thời gian tôi không còn gặp Thúy ở xứ Quảng, vì Thúy xuôi nam, vào Sài Gòn để học tiếp ở trong đó. Khi được người thân bảo lãnh qua Tây Đức, Thúy phải học lại chương trình trung học ở xứ người, rồi hoàn thành chương trình Đại Học, ra đi làm. Điều đáng nói là tôi rất phục cô bạn nhỏ này, khi biết Thúy giữ vai trò khá quan trọng trong sở làm của mình. Đấy là do tôi nghe ai đó truyền tai, chứ Thúy chả bao giờ khoa trương với tôi. Thúy còn là cây viết mà tôi thực lòng ái mộ. Những đoản văn, những hồi ức của Thúy về những khoảng đời đầy kỷ niệm ở xứ Quảng trước 1975, của tuổi học trò nhiều mơ mộng, những khó khăn chồng chất của cuộc sống gia đình sau cuộc đổi đời, và gần nhất là những nỗ lực không ngừng để đi học, đi làm ở xứ người. Những vui buồn của cuộc sống, Thúy đã gom lại trọn vẹn trong tập truyện Bông Hoa Trên Phím, khiến người đọc có cảm tưởng như mình được tác giả dẫn dắt đi vào từng ngõ ngách của cuộc đời, hạnh phúc, khổ đau đủ cả.

 

Thúy kể tôi nghe nỗi buồn vời vợi của mình khi Mẹ Thúy qua đời. Bây giờ, chỉ còn lại ông cụ thân sinh. Gần đây, Thúy rất vui dù phải dời chỗ ở, đổi công việc, với lý do duy nhất là Thúy muốn được về ở gần ông cụ, săn sóc, chăm nom cho thân sinh của mình. Mỗi ngày Thúy phải mất gần bốn tiếng đồng hồ đi, về để đến chỗ làm. Về tới nhà ngoài việc lo cơm nước, còn phải dành thời gian đưa ông cụ đi dạo một chút, thế nên Thúy không có thời gian cho FB hay trang mạng gì cả. Tôi thật sự xúc động khi nghe nỗi lòng của Thúy. Đó cũng là lý do tôi muốn viết về Thúy hôm nay.

 

Có thể là một trùng hợp tình cờ chăng? Tôi không biết. Chỉ biết là khi tuổi đời tôi chưa thực sự bước vào giai đoạn rung động của tình yêu, tôi đã yêu thích CON THÚY của nhà văn Duyên Anh vô cùng. Tôi còn nhớ bức họa CON THÚY, hình bìa của tác phẩm của Duyên Anh, là cô bé gương mặt bầu bĩnh, với hai bím tóc dễ thương. Còn cô em gái tên Thúy của tôi thì tóc chả bao giờ thắt bím, gương mặt trái xoan xinh đẹp, chả bầu bĩnh gì cả. Thúy của nhà văn Duyên Anh khi sợ đã thốt lên: “Eo ôi thấy mà ghê.” Còn em gái tôi, ngầu lắm nghe, ánh mắt ấy cho thấy, dù có núi chặn trước mặt, thì cũng tìm đường quanh để mà đi. Anh chúc Thúy luôn an vui, Thúy nhé.

 

-- Trần Thảo

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.