Hôm nay,  

ĐẾM SAO

09/07/202217:28:00(Xem: 3287)
Tạp bút

star

Em hãy đếm những vì sao trên trời được bao nhiêu thì anh yêu em còn nhiều hơn thế nữa.
Bùi Quang Đoài (Một Câu Chuyện Tình)

- Anh về đếm hết sao trời,
Em đây kết tóc ở đời với anh.
(Ca dao)

 

Cô hàng xóm và tôi đang ngồi trên ngọn đồi cách xa thành phố, cùng ngắm nhìn những ngôi sao lấp lánh trên cao. Cô ngồi bó gối bên tôi. Chiếc váy “mini” quá ngắn, hớ hênh đến độ tôi cứ tưởng như những con "dế mèn, dế dũi" của nhà văn Tô Hoài quanh đây có thể nhẩy vào cái nơi hoang vắng thâm u ấy. Sự hớ hênh này thật chẳng thích hợp với khung cảnh nên thơ và trong sáng của đêm nay. Cô dựa đầu trên vai tôi, ngước mắt nhìn trời đếm những vì sao:

 

Một ông sao sáng

Hai ông sáng sao

Ba ông sao sáng

Bốn ông sáng sao.

 

Và cứ như thế, cô đếm không ngừng, tưởng chừng như càng đếm được bao nhiêu ngôi sao thì số lượng tình yêu của tôi dành cho cô cũng sẽ nhiều như thế.

 

Cô chợt ngừng đếm rồi quay sang nói với tôi bằng một giọng thật nũng nịu:

 

- Anh đếm đi!

 

- Đếm cái gì?

 

- Đếm sao! Đếm theo em đi.

Tôi ngập ngừng:

 

- Ừ… thì đếm!

 

Sao và sao, đâu đâu trên vòm trời cũng đều là sao cả. Có đến hàng vạn, hàng triệu, hàng ức ngôi sao đang nhấp nháy, ngôi tỏ ngôi mờ. Tôi phân vân không biết phải bắt đầu đếm từ ngôi sao nào.

. . .

Ngẫm sao con tạo xoay vần

Chờ cho đến tối dần dần mọc ra
Mọc ra vô số hằng hà
Thiên hà vạn ức biết là bao nhiêu

Trời quang sao mọc cũng nhiều

Đến khi trăng tỏ ra điều sao thưa.

. . .

(Ca dao)

 

Tôi chỉ cho cô những ngôi sao thật sáng và tôi tự đặt tên cho chúng với cái tên của những vì sao quen thuộc mà tôi đã từng nghe đến từ cái thuở xa xưa, cái thuở cô hàng xóm còn chưa ra đời.

. . .
Trên trời sao Bẩy sao Ba
Nhị thập bát tú cùng là Thất tinh

Sao Hôm chỉ mọc một mình

Sao Mai gà gáy chung tình với ai

Có Hôm mà chả có Mai
Kìa như sao Vượt chờ ai giữa trời
Nam tào, Bắc đẩu đôi nơi

Thần nông sao ấy trị vì làm ăn.

. . .

(Ca dao)


Tôi chợt nhớ tới và se sẽ hát "Bài Ca Sao" của Phạm Duy, đồng thời cũng vờ chỉ cho cô những ngôi sao có tên trong bài hát ấy. Cô nhìn tôi chớp chớp đôi mắt cảm động một cách ngờ nghệch vì cô tưởng đâu những câu tình tứ trong bài ca mà tôi đang hát là để chỉ dành riêng cho cô.

 

Sao Tua chín cái nằm kề

Thương em từ thuở mẹ về với cha

Sao Vua dăm cái nằm xa

Thương em từ thuở người ra người vào

Sao Mơ sáu cái nằm chầu
Sao Khuê mấy cái nằm đâu?
Sao Khuê mấy cái nằm dài

Thương em từ thuở tình ngoài nghĩa trong

Sao Măng năm cái nằm ngang

Thương em từ thuở mẹ mang đầy lòng

Sao Vua năm cái nằm tròn

Sao Tư bốn cái nằm vuông

Sao Hôm le lói đầu hè

Thương em từ thuở em về với ai

Sao Mai le lói ngọn cây

Thương em từ thuở về xây tình người.

Sao Vân xa tít đầu trời

Sao Quanh cao ngất ngoài khơi

Sao Vân muôn cái mịt mùng

Thương em từ thuở ngàn trùng cách chia

Sao Quanh theo gót người đi

Thương em chỉ có trời khuya nhìn về

Sao ơi, sao hỡi buồn gì?

Sao ơi, sao hỡi buồn chi?

 

Tôi lại còn bịa ra một lô tên cho những ngôi sao mà những tên ấy chưa hề từng có ở trên cõi đời này như sao Lưu Bị, sao Quan Công, sao Trương Phi, vì thấy chúng ở gần nhau như đang diễn ra cái cảnh kết nghĩa Vườn Đào. Cô hàng xóm của tôi thì mù tịt với những cái tên trong truyện Tầu ấy nên chỉ còn biết há mồm, ngẩn tò te thán phục.

 

Cô thích thú với sự chỉ dẫn rất "nổ" của tôi, hỏi:

 

- Anh học Thiên Văn à? Sao anh biết nhiều sao thế!

 

Tôi "nổ" tiếp:

 

- Ừ, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ này. Anh không biết thì còn ai biết. Cái gì mà anh chẳng biết!

 

Cô hỏi thêm:

 

- Thế sao Chổi ở đâu?

 

- Đằng kia kìa. Tôi bâng quơ chỉ tay về hướng những ngôi sao xa tận cuối chân trời.

 

- Sao nó không giống cái chổi?

 

- Hỏi vớ vẩn! Quét xong, ông Trời cất đi rồi. – Tôi bí nên gạt ngang, cười xòa.

 

Cô cười theo rồi cứ lấy tay đấm vào đùi tôi thùm thụp:

 

- Anh nói dối nhá, anh nói dối nhá!

 

Cô nói với một giọng rất "nẫu" mà cứ cho là rất nũng nịu ngây thơ. Đợi khi cô thôi đấm, nhớ đến nhà văn Vũ trọng Phụng than thân là mình đã sinh ra vào một ngôi sao xấu, tôi giải thích thêm:

 

- Người xưa tin rằng mỗi người dưới trần gian này sẽ tương ứng với một vì sao trên trời.

 

Cô chồm lên ngắt lời tôi:

 

- Thật hả? Thế ngôi sao của em ở đâu, tên gì?

 

Tôi chỉ vào một ngôi sao rồi nói:

 

- Kia kìa, tên là sao Băng.

- Tại sao tên là sao Băng? Cô chớp chớp đôi mắt ngạc nhiên.

 

Tôi ỡm ờ trả lời:

 

- Tên Băng vì em lạnh như băng (giá) ấy!

 

- Thế ngôi sao của anh phải nóng lắm hả. Chắc nó tên là Lửa (sao Hỏa)?

 

Nói xong câu ấy, cô tự cho đó là câu nói đùa đầy dí dỏm, mặt vênh vênh đắc ý rồi phá lên cười. Tiếng cười của cô lanh lảnh vang xa làm con sóc gần đó sợ hãi chui tọt vào hang.

 

Tôi mỉm cười hóm hỉnh đáp:

 

- Không phải. Sai rồi. Ngôi sao của anh ở tít đằng xa kia kìa, tên là sao "Nổ".

 

- Sao "Nổ"? Em chưa hề nghe thấy bao giờ.

 

- Sao "Nổ" thì nhiều lắm. Mỗi sao nổ một cách.

 

Tôi nghiêm giọng, ra vẻ thầy đời, lên giọng dậy dỗ:

 

- Em không biết à? Những ngôi sao “Nổ” này cùng họ hàng gần với sao "Phét" (nói phét), gần với sao "Khoác" (khoác lác)... Thường thì những ngôi sao này rất mờ. Vì rất mờ so với những ngôi sao khác nên chúng phải nổ để mong cho mình được sáng thêm lên và được mọi người chú ý tới. Vì là sao “nổ” nên khi nổ, âm thanh của nó thường chát chúa đến đinh tai nhức óc, nhưng cũng có khi tiếng nổ chỉ lẹt đẹt vài tiếng như pháo "tép " trẻ con chơi trong ba ngày Tết. Tiếp theo những tiếng nổ thường là những sự đổ vỡ, vỡ cửa vỡ nhà hay vỡ mặt, hay còn có khi "vỡ nợ" nữa. Và cái "vỡ nợ" bẽ bàng gần nhất là những câu thường được nghe thấy liền sau tiếng nổ: "Nổ rồi mà chỉ sáng được có thế thôi à!"

 

Cô nghển cổ im lặng nghe tôi nói một cách hết sức thành khẩn, thành khẩn đến trở thành ngu ngơ, ngốc nghếch. Tay cô xoa nhẹ lên chiếc váy nơi bị muỗi đốt. Muỗi ở đây đốt đau và ngứa ngang với muỗi West Nile chết người. Hết xoa cô lại lấy hai ngón tay lúc cấu, lúc véo cho đã cơn ngứa. Có khi cô cho hẳn bàn tay vào trong để gãi. Động tác gãi của cô quá tự nhiên, tự nhiên đến độ tôi không thể trách cô tại sao lại làm như thế trước mặt một người đàn ông đứng đắn như tôi, một người vốn cầm tinh sao "Nổ".

 

Cô vẫn há hốc mồm ra chiêm ngưỡng nhìn tôi dù tôi đã ngừng nói từ lâu. Cô cứ ngẩn người ra như Từ Hải chết đứng pha lẫn nét đăm chiêu. Rồi cô nhìn lên trời cao, buông thõng một tiếng bất ngờ:

 

- Xạo!

 

- Xạo gì? Tôi trố mắt hỏi.

 

- Anh nói em cứ đếm trên trời có bao nhiêu vì sao, anh sẽ yêu em còn nhiều hơn thế nữa.

 

Tôi chưng hửng vì tôi cứ tưởng từ nẫy đến giờ cô đang lắng nghe tôi nói về những ngôi sao "Nổ". Tôi miễn cưỡng hỏi:

 

- Thế em đếm được bao nhiêu ngôi sao rồi?

 

- Được vài chục!

 

Tôi nháy mắt hỏi đùa:

 

- Thế còn chưa đủ cho em à?

 

Cô trở nên thông minh khác thường, đánh nhẹ vào cánh tay tôi cười ré lên:

 

- Anh này... nham nhở nhá... chưa đủ! Phải cả nghìn cơ!

 

Tôi không hiểu nổi chữ “nham nhở” cô dùng ở đây. Nói xong cô đứng lên vụt chạy ra xa, ngoảnh lại như chờ tôi đuổi theo sau. Tôi đứng dậy vươn vai nhìn trời cao. Tôi giật mình khi nhìn thấy một ngôi sao sáng quá. Ngôi sao ấy cứ nhìn tôi chầm chập và như trách móc tôi sao tới giờ này vẫn chưa về ăn cơm tối, bắt chờ. Tôi nhìn ngôi sao ấy, trong lòng không khỏi bối rối và có chút gì hổ thẹn. Tôi nói vọng về phía cô hàng xóm đã chạy ra xa với giọng gần như ra lệnh:

 

- Về!

 

Cô nói vọng lại:

 

- Chưa gì đã về!

 

- "Chưa gì" là chưa cái gì? Về!

 

Tôi vội rảo bước nhanh. Cô hàng xóm lật đật chạy theo sau.

 

Cô như vẫn còn ấm ức:

 

- Ngày mai anh phải đưa em lên đây đếm sao tiếp. Anh nhớ mang theo cái chăn nữa nhé, ngồi trên cỏ ngứa quá.

 

Cô chạy lên phía trước, vừa chạy vừa đưa hai tay ra sau cào gãi hai khối thịt nung núc đang tưng lên theo bước chạy.

 

Trời vẫn trong, gió vẫn thổi và những ngôi sao vẫn lấp lánh trên cao. Cô hàng xóm vẫn đổ dốc xuống đồi. Một ngôi sao xẹt ngang trời. Sao "Sa". Một ngôi sao vừa nổ tan tành. Buồn!

 

Và tôi cũng buồn cười vì thấy cô hàng xóm đã chạy xuống đến gần cuối chân đồi. Bóng dáng cô trở nên ngắn và tròn nên tôi cứ ngỡ như cô ấy đang lăn. Cũng may cô không phài là chị Doãn của nhà văn Vũ Trọng Phụng, một người đàn bà có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp trai, mà ngược lại, nhan sắc của cô thì lại đẹp vô cùng để cho tôi:

 

Buồn trông chênh chếch sao Mai,

Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ.

(Ca dao)

 

Nguyễn Giụ Hùng

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.