Hôm nay,  

Nhà thơ Phan Vũ: EM ƠI! HÀ NỘI PHỐ

16/07/202221:05:00(Xem: 4862)
phanvu

Nhà thơ Phan Vũ đọc bài thơ Em Ơí! Hà-Nội Phố tại Thư Viện Hà Nội hôm 25-9-2010.


 

Em Ơi! Hà-Nội Phố

Ta còn em mùi hoàng lan

Còn em mùi hoa sữa

Tiếng giầy gọi đường khuya

Cọt kẹt bước chân quen

Thang gác

Thời gian

Mòn thân gỗ…

Ta còn em màu xanh thật đêm

Ngôi sao lẻ

Xào xạc chùm cây gió

Chiếc lá lạc vào căn xếp nhỏ

Lá thư quên địa chỉ

Quay về

 

Ta còn em một gốc cây

Một cột đèn

Ai đó chờ ai

Tóc cắt ngang

Xõa xõa bờ vai

 

Ta còn em, một ngã ba vội vã

Chiếc khăn quàng tím đỏ thoáng qua

Khuôn mặt chưa quen

Bỗng xôn xao nỗi khổ

Gốc phố ấy

Mở đầu trang tình sử

 

Ta còn em

Con đường vắng rì rào cơn mưa nhỏ

Trên vòm cao

Đổ xuống chuông hồi

Nhà thờ Cửa Bắc

Chiều tan lễ

Chuông nguyện còn mãi ngân nga

 

Em Ơi! Hà-Nội Phố

Ta còn em đôi mắt buồn

Đôi cánh chim xa

Tháng năm dừng lại

Một ngôi nhà

Gã Trương Chi ôm ghi-ta

Từng đêm

Hóa đá

 

Ta còn em chuyến tàu đêm

Về muộn

Qua cầu

Một người nào lạc giữa sân ga

 

Ta còn em những hố sâu

Trước cửa cơn mưa đầy

Chiếc thuyền giấy lang thang

Không bến đỗ

 

Ta còn em quả bóng lăn

Một mình trên sân cỏ

Thằng bé thẫn thờ

Tuổi thơ qua cuộc chơi

Vội vã…

 

Ta còn em cánh cửa sắt

Lâu ngày không mở

Nhà ai qua đó bâng khuâng

Nhớ tuổi học trò

 

Em Ơi! Hà-Nội Phố

Ta còn em giàn thiên lý

Năm xưa

Thơm mùi hò hẹn

Cuộc tình đầu ngọt lịm

Những nụ hôn xanh ngắt trên cành

Ta còn em chuỗi cười vừa dứt

Nắng chiều vàng ngọn cỏ

Vườn hoang

Ngày cũ vui tàn theo mùa hạ

Ta còn em tiếng ghi-ta

Bập bùng

Tự sự

Châm lửa điếu thuốc cuối cùng

Xập xòe

Kỷ niệm

Đêm kinh kỳ thuở ấy

Xanh lơ

 

Ta còn em chiếc đồng hồ quả lắc

Già nua

Đếm thời gian

Theo nhịp đong đưa

Trước ngõ phố

Sót cây hoa gạo

Buổi chợ chiều họp giữa kinh đô

 

Ta còn em những ngọn đèn mờ

Trên nóc phố

Mùa trăng không tỏ

Tiếng rao đêm

Lạc giọng

Thờ ơ

 

Em Ơi! Hà-Nội Phố

Ta còn em bảy nốt cù cưa

Lão Mozart hàng xóm

Từng đêm quên ngủ

Cô gái áo đỏ Venise

Tiếng dương cầm trong căn nhà đổ

Những mảnh vỡ trên thềm

Beethoven và Sonate Ánh Trăng

Nốt nhạc thiên tài bay lả tả

Một kiếp người

Một phiếm đàn long

 

Ta còn em ngọn đèn khuya

Vùng sáng nhỏ

Bà quán mải mê câu chuyện nàng Kiều

Rượu làng Vân lung linh men ngọt

Mắt cô nàng lúng liếng

Đong đưa

Những chàng trai say suốt mùa

 

Ta còn em tiếng hàng ngày

Vang âm đường phố

Tia hồ quang chớp xanh

Toa xe điện cuối ngày

Người soát vé

Áo bành tô cũ nát

Lanh canh! Lanh canh!

Tiếng chuông reo hay lời kêu khổ

Bó gạo mớ rau

Mẹ về buổi chợ

Lanh canh! Lanh canh!

Lá bánh củ khoai

Đàn con trên bến đợi

Cuối ngày

 

Em Ơi! Hà-nội Phố

Ta còn em con đê lộng gió

Dòng sông chảy mang theo hình phố

Cô gái dựa lưng vào gốc me già

Ngọn đèn đường lặng thinh

Soi bờ đá…

 

Ta còn em một con tàu

Giã biệt bến sông

Mảnh trăng vỡ

Tiễn người bỏ xứ

Dãy phố buồn nghìn năm mắt nhớ

 

Ta còn em ráng đỏ chiều hôm

Đôi chim khuyên gọi nhau trong bụi cỏ

Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá

Gã đầu trần đi dưới trời mưa

Ta còn em con đường tên cũ

Cổ Ngư

Cành phượng vĩ là đà

Chiều phai nắng

Bông hoa muộn in hình ngọn lửa

Ta còn em, chiếc lá rụng

Khởi đầu nguồn gió

Lao xao cơn sóng biếc

Gió Tây hồ

Hoàng hôn xa đến tự bao giờ

Nhưng bước chân tìm nhau vội vội…

Cuộc tình hờ bỗng chốc nghiêm trang

 

Ta còn em ngọn gió Nghi Tàm

Thoáng mùi sen nở muộn

Gió Nhật Tân

Gợi

Mùa hoa năm ấy

Cánh đào phai

 

Em Ơi! Hà-Nội Phố

Ta còn em cơn mưa rào

Đi nhanh qua phố

Chiếc lá bàng đầu tiên

Nhuộm đỏ

Cô gái gặp nắng hanh

Chợt hồng đôi má

Một chút xanh hơn

Trời Hà Nội hôm qua

 

Ta còn em cô hàng hoa

Gánh mùa Thu

Qua cổng chợ

Những chùm hoa tím

Ngát mùa Thu.

 

Ta còn em một Hàng Đào

Không bán đào

Một Hàng Bạc

Không còn thợ bạc

Đường Trường Thi

Không chõng, không lều

Không ông nghè bái tổ vinh quy

 

Ta còn em tiếng gọi trong đêm

Người đi xa trở về

Căn nhà không biển số

Ngày đi mỏi mòn nỗi nhớ

Ngày về phố cũ quên tên

 

Em Ơi! Hà-Nội Phố

Ta còn em chiếc xe hoa

Qua hàng liễu rủ

Điệp vàng rực rỡ

Cánh tay trần trên gác cao khép cửa

Những gót son dập dìu đại lộ

Bờ môi ai đậm đỏ bích đào…

 

Ta còn em tà áo nhung huyết dụ

Đất nghìn năm còn mãi dáng kiêu sa

Phường cũ lưu danh người đẹp lụa

Gõ phố nào in dấu hài hoa

 

Ta còn em đường lượn mái cong

Ngôi chùa cổ

Năm tháng buồn xô lệch ngói âm dương

Ai đó ngồi bên gốc đại

Chợt quên ai kia dưới đường đứng đợi

Cuộc đời có lẽ nào

Là một thoáng

Bâng quơ

 

Em Ơi! Hà-Nội Phố

Ta còn em

Những cuộc tình

Như một bài thơ

Những nỗi đau gặm mòn số phận

Nhật ký sang trang

Ghi thêm nỗi khổ

 

Ta còn em đống kim ngân

Đổ đầy Hàng Mã

Ngựa, xe, võng, lọng

Những hình nhân nuối tiếc vàng son

Khi phố phường là miền loạn gió

Làm sao tìm được mớ tro than

 

Em Ơi! Hà-Nội Phố                                           

Ta còn em, nóc phố lô xô

Màu ngói cũ

Ngôi nhà còn tiếng khóc oa oa…

Con đường đá lát bao nhiêu niên kỷ

Qua song nhớ mẹ tuổi già

 

Ta còn em mảnh đại bác

Ghi trên thành cũ

Một thời thịnh

Môt thời suy

Hưng vong là thường

Người qua đó

Hững hờ bài học sử

 

Ta còn em dãy bia đá

Nhân hình hội tụ

Rêu phong gìn giữ nét tài hoa

Ly rượu đầy xin rót cúng cha

Nghìn lạy cúi đầu thương đất tổ

Bến nước nào đã neo thuyền ngự

Đám mây nào in bóng rồng bay

 

Em Ơi! Hà-Nội Phố

Ta còn em tháng chạp

Những hàng cây óng ả sợi hồng

Tháng chạp

Trên giường trải chiếu hoa

Tháng chạp

Mùi hương dài theo phố

Một tháng chạp

Mẹ

Nửa đêm thức

Hóa vàng

 

Ta còn em, năm cửa ô

Năm cửa gió

Cơn bão thường niên qua đò

Ba mươi sáu phố

Bao nhiêu mảnh vỡ

Ta còn một màu xanh thời gian

Một màu xanh hư vô

Chợt nhòe

Chợt hiện

Chợt lung linh ngọn nến

Chợt mong manh một dáng

Một mình

Nhợt nhạt vàng son

Đậm đầy cay đắng

 

Em Ơi! Hà-Nội Phố

Ta còn em,những ngõ cụt bất ngờ

Ô cửa ngẩn ngơ

Ngôi nhà không người ở

Khung trời nỗi buồn

Vô cớ

Người nghệ sĩ lang thang

Hoài

Trên phố

Bỗng thấy mình không nhớ nổi con đường

Tha hương ngay trước cổng nhà mẹ cha

 

Ta còn em những giọt sương

Nhòe nhòe bóng điện

Mặt  Hồ Gươm

Một đêm trở lạnh

Tháp Rùa ngả bóng lung linh

Cánh nhạn chao nghiêng chiều cuối

Người ra đi mang theo buốt giá

Áo choàng không ấm thân gầy

Cầm bằng như cánh chim bay

 

Em Ơi! Hà Nội Phố

Ta còn em cây bàng

Mồ côi mùa Đông

Ta còn em nóc phố

Mồ côi mùa Đông

Ta còn em mảnh trăng

 Mồ côi mùa đông...


*

 

Không ai dám đoan chắc rằng bài thơ Em ơi! Hà Nội phố kết thúc như ở trên hay nó còn thêm một hay vài đoạn nữa. Vì thuở ấy có một nhà thơ lớn khi đọc bài thơ này đã thực lòng khuyên Phan Vũ không nên phổ biến vì có thể chuốc vạ vào thân. Sự thật nhà thơ Phan Vũ cũng mệt mỏi vì những sự phiền hà về văn chương của giai đoạn ấy nên cũng nghe theo, bỏ xó bài thơ trong ngăn kéo. Tất nhiên trong quá trình dài dằng dặc nửa thế kỷ, bài thơ không thể nằm yên trong ngăn kéo mà luôn cựa quậy khiến ông phải chỉnh sửa nhiều lần. Nhiều khi có tý rượu ngà ngà, lại chợt nhớ, chợt thương một nỗi niềm, chợt tìm thấy một dáng hình một con chữ cần thêm cần bớt. Vì lẽ đó bài thơ Em ơi! Hà Nội phố cũng phải thay đổi dáng hình cùng thời với mỗi giai đoạn lich sử tâm tư của tác giả của nó...

 

Ngoài Trường ca Em ơi! Hà Nội phố, Phan Vũ còn có hơn 30 bài thơ khác. Phan Vũ viết về gì? viết cho ai? cũng đều là thơ thấm đậm tình yêu của ông, sôi nổi và trẻ trung. Và hơn hết EM ơi! Hà Nội phố, là tình yêu hơn cả tình yêu, là nỗi đau hơn cả mọi nỗi đau, là niềm day dứt hơn cả mọi niềm day dứt của Phan Vũ...(*)

 

Đào Như

 

Ghi chú:


(*)  Nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Hậu.

 

Nhân ngày giỗ thứ ba của nhà thơ Phan Vũ (17-7-2022).

 

Khi nhà thơ Phan Vũ tạ thế cách đây 3 năm, tôi đã có một bài viết về ông đăng trên Việt Báo. Xin đọc:

 

Nhà thơ “Em ơi, Hà nội phố” đã ra đi… - Bình Luận - Việt Báo Văn Học Nghệ Thuật (vietbao.com)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.