Hôm nay,  

Phẩm giá

06/08/202221:09:00(Xem: 4370)
Truyện ngắn

quannhau

Mỗ và mấy ông bạn đang nhậu ở nhà hàng Hương Biển, một nhà hàng hạng sang của thành đô. Cả bàn nhậu đang sung sướng đã đời luôn, chợt mỗ nhìn thấy một cô gái xinh như diễn viên, tuy mới gặp lần đầu nhưng sao thấy quen quá, còn đang bán tín bán nghi, nửa tin là phải nửa ngờ rằng sai, cái tướng người ấy sao giống quá, tuy nhiên mặt mũi thì lại khang khác. Trong lúc tâm trí mỗ mở ra, lục tung để tìm dữ liệu hay ký ức cũ thì cô ta tiến lại chào, vẫn cái cung cách thân mật và có phần hơi suồng sã:

 

- Trời, anh Tèo! Hổng nhận ra em sao?

 

- Ơ, cô là ai? Có phải…

 

- Đúng rồi, em đây, Mén đây nè!

 

- Trời đất, Mén đây sao? Sao mà khác quá vậy?

 

- Thời buổi khác, em cũng phải khác chớ anh!

 

- Ngày xưa em đen nhẻm, mắt mũi đâu có như vậy! Rồi còn cái dáng cũng đâu phải như thế này.

 

- Tại em tắm trắng đó, em gom góp mớ tiền đi thẩm mỹ viện đập mặt làm lại toàn bộ, sau đó em còn nâng ngực và bơm mông nữa… Giờ thấy em có đẹp không?

 

- Đẹp lắm, như mấy diễn viên Hàn Quốc vậy đó.

 

- Còn anh, làm gì mà cả chục năm nay biệt tăm biệt tích?

 

- Anh ra nước ngoài làm ăn, giờ em làm nghề gì?

 

Hỏi thì hỏi vậy chứ mỗ cũng đã nghe bạn bè nói hết cả rồi. Mén giờ không còn là Mén nữa mà là Mitchell, một gái bao hạng sang, chuyên cặp với đại gia hay những tay làm lớn có máu mặt lẫn máu dê. Mỗ còn chưa dứt cơn phân vân thì đã nghe Mén, í quên Mitchell cười thoải mái và không ngờ cổ huỵch toẹt luôn:

 

- Em kinh doanh vốn tự có, lấy lại chút ít của dân lộc nước từ đại gia và quan gia. Em biết thiên hạ khinh miệt cái nghề của em và những người như em nhưng xem ra thì nghề của em vẫn còn lương thiện hơn cái bọn bao em. Em chỉ lấy lỗ làm lãi, còn bọn ấy lấy của dân và của quốc gia. Anh thì sao, sống nghề gì?

 

- Anh làm báo, viết lách, sống bằng nhuận bút.

 

- Trời! Thời buổi này mà còn làm báo với viết lách, ai đọc? Chữ nghĩa rẻ hơn cám heo anh ơi!

 

Tự dưng mỗ thấy nóng mặt, cô ta là cái thá gì, làm gái mà bày đặt chê cái nghề chữ nghĩa cao quý trí thức? dám xem thường chữ nghĩa, cho dù cô ta có là gái hạng sang hay hạng xoàng cũng thế thôi! Sao dám khi dễ trí thức như vậy? Tuy nhiên ngẫm nghĩ lại thì cô ta nói đúng, nói thật, cái sự thật dù đau đớn nhưng phải chấp nhận:” Thời buổi này chữ nghĩa rẻ hơn cám heo, ai đọc nữa mà viết?”. Mỗ lâu nay tự phụ có cả bụng chữ vậy mà giờ ngẩn tò te hổng biết dùng lời gì để nói. Cô Mén ngày xưa giờ là Mitchell xáng lại sát bên, cười tươi như hoa, vỗ vỗ má mỗ:

 

- Anh làm mười năm mới sắm được cái xe cà tàng đời cổ lai hy. Em làm hai năm sắm đượcbiệt phủ, xe hơi đời mới. Em nói cho anh biết, em phải bán thân mới được như vậy, cũng đau đớn và nhục nhã lắm nhưng riết rồi quen. Anh biết không? Xứ mình giờ lao động kiếm tiền nhàn nhã lắm! Có ông quan thanh tra cấp cao chỉ buôn chổi đót, chạy xe ôm, nuôi heo thả nọc vậy mà cất biệt phủ mấy chục tỉ, còn của chìm của nổi hổng biết bao nhiêu mà kể, ổng còn khoe là ổng đếm tiền đến thối cả móng tay.

 

Mỗ gật gù vì cái vụ này có nghe qua rồi, hổng ngờ cổ là gái bao mà cũng rành thời sự ghê. Mỗ khen cô ta nhưng thực ra là ngầm tự hào về cái thế của mình:

 

- Đó, em thấy chưa! Chữ nghĩa rẻ hơn cám heo nhưng cũng nhờ chữ nghĩa và báo chí mà mọi người mới biết buôn đót, nuôi heo mà giàu đến đếm tiền thối cả móng tay!

Mén cười nắc nẻ:

 

- Anh dở chèo mũi nhưng giỏi chèo lái, đúng đó anh, cái vụ đó nhờ báo chí mà mọi người biết và cười rần rật luôn. Còn nhiều vụ khác nữa anh ơi, có ông kia làm lớn lắm nhưng thực ra chẳng làm gì cả, lương chừng chục triệu đồng nhưng gia tài cả mấy chục triệu đô, khi báo chí phanh phui ra thì ổng bảo:” Thừa kế, cha mẹ cho”. Anh thử nghĩ xem, nhà ổng ba đời bần cố nông, cục đất chọi chim hổng có, mảnh đất cắm dùi cũng không, vậy mà thừa kế cái gì? Cha mẹ cho cục cức gì?

 

Tự dưng mỗ thấy đắng nghét nghẹn cả cổ họng, lâu nay vốn xem thường gái bao, té ra họ cũng hiểu biết và có quan hoài đến thế sự đấy chứ! Cái quan trọng là nghề của cô ấy lương thiện hơn bao nhiêu vị  làm lớn trong xã hội. Cô ấy chỉ bán thân nuôi miệng chứ chẳng trộm cướp của dân, không đục khoét công quỹ, không cạp đất mà ăn… Cô ấy làm gái thì nói làm gái chứ chẳng như bọn làm lớn chuyên trộm cướp đục khoét mà lại lớn giọng dạy đạo đức. Cô ấy làm gái nhận mình làm gái chứ không như một bầy sâu chuyên đục khoét ăn tàn phá hoại mà cứ tự xưng là rồng, là hổ…

 

Mitchell cụng ly với mỗ, ngửa cổ tu một hơi cạn ly bia:

 

- Anh ở xa mới về,  hổng biết có hay tin cái vụ chị “ Cuồn cuộn” vợ anh Lò Vôi không? Thằng chả đi lính về, trắng tay vàng mắt, hổng có xu teng nào, vậy mà sau một thời gian thì trở thành đại gia đó anh, tài sản tính bằng trăm triệu đô, đất đai không biết bao nhiêu mà kể. Còn mẹ “ Cuồn cuộn” đó cứ lên mạng chửi lung tung chẳng chừa ai, thiệt tình mà nói thì cũng nhờ mẻ mà bao nhiêu chuyện gian được phanh phui ra, nào là thần y dỏm chuyên gạt người ăn tiền; bọn làm từ thiện ém tiền cứu trợ; tiền ủng hộ mổ tim cho người nghèo và trẻ em thì bị bà lớn lấy đi mua xe…Con mẹ to gan lắm anh, chửi cả mấy ông bà làm lớn, có lẽ mẻ quá tin vào thế lực chống lưng cũng như tiền rừng bạc bể nên mạnh miệng như vậy, mặc dù đã có dấu hiệu cảnh báo mà mẻ chẳng sợ, cuối cùng thì bị hốt nhập kho. Con mẻ và lũ tiểu yêu dưới trướng quậy tưng mấy năm nay.

 

Mỗ biết hết cả chứ, mấy vụ này tràn ngập báo chí lẫn mạng xã hội, tuy nhiên mỗ kinh ngạc ở chỗ là nghe được những lời này từ miệng của một cô gái bao, thấy đã cái lỗ nhĩ và tự dưng thương ẻm dễ sợ. Ẻm tuy làm gái nhưng lương tâm trong sáng và sạch sẽ hơn cái đám làm lớn làm láo kia. Ẻm ăn nói bộc trực  thô tháo nhưng làm cho lòng người dễ chịu hơn lời điêu toa xạo sự đạo đức giả của những kẻ làm lớn. Ẻm làm cái nghề hổng được xã hội công nhận nhưng việc làm của ẻm không làm hại nước hại dân. Việc ẻm làm tuy thiếu đứng đắn, khiến người đời khinh khi coi thường nhưng ẻm làm thật chứ không làm như mèo mửa nhưng ăn như hạm của các quan gia. Ẻm lấy thân xác làm phương tiện kiếm ăn chứ chẳng ăn thuế dân lộc nước… Lòng mỗ thấy thương và cảm thông với ẻm, trong phút giây cảm kích nên bình tâm ngắm lại ẻm. Ẻm giờ đẹp thật, cứ như ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc vậy, mắt to tròn xoe, môi trái tim, mặt chữ V, ngực tròn vun lên, mông diêu ra, eo thóp lại… Công nhận cái công nghệ sửa sắc đẹp ghê gớm thật, vượt qua quyền tạo hóa, có thể biến cú thành tiên, nam thành nữ hoặc nữ thành nam… Tuy biết sắc đẹp của ẻm là giả nhưng mỗ thấy mát con mắt ưng cái bụng. Cái giả của ẻm hổng hại gì ai, hổng như cái giả của quan gia lớn nhỏ, bọn ấy làm giả, nói giả, đạo đức giả, nhân nghĩa giả, bằng cấp giả… chỉ có mỗi cái ăn và phá là thật. Biết cái đẹp của ẻm là giả nhưng lòng mỗ động tâm thật, mỗ thầm nghĩ:” Làm thử một phát xem sao, hổng biết đồ giả ấy có bằng đồ thật chăng?”. Mỗ phì cười vì cái ý nghĩ bậy bạ làm cho Mitchell thắc mắc:

 

- Anh vui gì mà cười vậy?

 

Mỗ không dám nói thật, dù biết ẻm là gái bao, dù sao thì cái tình bạn thuở thiếu thời học chung trường  không cho phép mỗ suồng sã. Mỗ ngu ngơ hỏi:

 

- Sao em không kiếm một nghề gì đó mà làm?

 

Mitchell ôm lấy mỗ một cái thật chặt rồi bắt cụng ly, ẻm cười giòn tan:

 

- Ở xứ mình làm ăn khó lắm anh ơi, không phải ai cũng nuôi heo, chạy xe ôm, buôn đót mà giàu được đâu! Còn làm ăn lương thiện thì khó vô cùng, phải bôi trơn bao nhiêu cửa, phải nộp tiền bảo kê cho xã hội đen, phải cúng cô hồn sống bất cứ khi nào chúng nó xuất hiện, cô hồn chết thì cúng đầu tháng và chỉ là con gà dĩa xôi, cô hồn sống nó ra định mức phải cúng cho nó, cúng không đủ hay không cúng là coi như sập tiệm! Muốn làm ăn khó lắm anh ơi, ăn thì dễ mà làm thì khó, còn như không làm mà ăn thì phải làm lớn, bọn làm lớn cạp đâu cũng ra tiền, kể cả cạp đất. Dân đen như tụi em mà không làm thì cạp đất mà ăn!

 

Sau bao năm lưu lạc mưu sinh, mỗi người một phận, giờ gặp lại Mén ngày xưa và biết việc cô làm. Mỗ ngầm so sánh việc làm của cổ với việc các quan gia làm lớn nên thấy thương cổ rất nhiều. Người đời khi dễ khinh chê nghề cô ấy làm, mỗ thấy bất công, lẽ ra việc ăn tàn phá hại của quan gia mới đáng khinh bỉ. Người đời mê nên xem thường cổ mà lại xem trọng quan gia. Mỗ cũng chợt thấy thương cho Mén và tủi cho mình khi nhớ lại lời của cổ lúc nãy: ”Chữ nghĩa rẻ hơn cám heo, giờ có ai đọc nữa đâu!”

 

-- Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 08/22)

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.