Hôm nay,  

Edmonton có gì lạ?

15/08/202220:12:00(Xem: 6365)

Tản mạn

IMG_6342
 Thầy Pháp Hoà & tác giả tại chùa Trúc Lâm, Edmonton, Canada.

 

Khi mới qua Canada định cư ở thủ đô Ottawa, tôi chẳng biết nhiều về các thành phố khác, ngoại trừ vài thành phố lớn lân cận xung quanh miền Đông Canada như: Toronto, Montreal, Quebec. Đến lúc chồng tôi được chuyển việc làm tôi mới biết có một thành phố mang tên Edmonton ở vùng viễn tây Canada thuộc tỉnh bang Alberta. Thời đó chưa có Googles nên chúng tôi phải vào thư viện Ottawa để tìm sách đọc về Edmonton trước khi dọn đến cho bớt ngỡ ngàng. Dù là thủ phủ của bang nhưng Edmonton không phải là thành phố lớn, dân số hơn một triệu người với diện tích 684 cây số vuông và chẳng có tiếng tăm gì với những điểm du ngoạn nổi bật. Ngày chia tay với bạn bè, họ chúc chúng tôi đến Edmonton bình an cuộc sống với… mọi da đỏ, vì họ nghĩ đây là vùng thảo nguyên bao la, gần phía Bắc Cực, là nơi cư trú của dân “native”. Người trong Canada mà còn nghĩ vậy thì nói chi đến những người ở các nước khác. Mỗi khi có bạn ở Mỹ, Châu Âu, Úc hay Việt Nam hỏi tôi ở thành phố nào, khi nghe đến Edmonton ai cũng ngơ ngác:

 

– Edmonton ở đâu, có gần Toronto không?

 

Tôi hơi bị… quê, nhưng vẫn cố gỡ gạc:

 

– Bạn có biết thành phố Vancouver thuộc bang British Columbia không, nằm gần với Seattle của bên Mỹ đó!

 

– Vancouver của Canada và Seattle của Mỹ là hai thành phố nổi tiếng, ai mà không biết!

 

– Thì đó! Edmonton của tôi gần Vancouver.

 

– Gần là gần bao lâu tiếng lái xe?

 

– Cỡ... 12 tiếng chớ nhiêu!

 

– Mà đến Edmonton có gì chơi hôn?

 

– Cũng có chớ! Cái West Edmonton Mall lớn nhứt Bắc Mỹ.

 

– Xời! Mall ở nơi đâu chả giống nhau, chỉ có diện tích lớn hơn thì có gì mà… khoe?!

 

Tôi tự ái dồn dập, nhưng họ nói cũng chẳng sai. Thú thật, cả năm tôi đến West Edmonton Mall chừng một, hai lần, hoặc khi có người thân từ nơi khác qua chơi, tôi đưa họ đến đó cho biết. Mall rộng lớn thênh thang vì ngoài các tầng lầu cho shopping, còn có các casinos, hotels, restaurants, supermarkets, bars, rạp chiếu phim, hồ tắm có bãi biển nhân tạo, nên mua sắm xong cũng rã rời cả chân tay. (Chả hiểu tại sao thành phố nhỏ xíu mà lại… chơi sang, xây một cái Mall thiệt bự?)

 

Thành phố nhỏ nên cộng đồng người Việt cũng nhỏ. Phố Việt chỉ quanh quẩn mấy blocks đường, và các quán ăn món Việt cũng ở mức độ “thường thường bậc trung”.

 

Tôi âm thầm sống trong thành phố Edmonton bé nhỏ gần hai mươi năm qua, cho đến vài năm gần đây, cũng những bạn bè trước đây hờ hững hỏi Edmonton có gì vui, có gì lạ thì nay họ phone cho tôi, giọng điệu thay đổi 180 độ, ân cần thân thiết:

 

– Bà ở Edmonton vậy có biết Thầy Thích Pháp Hoà không nà?

 

– Thì sao? Nhà tui chỉ cách Chùa Trúc Lâm của Thầy vài con đường.

 

– Bà không biết thiệt sao? Thầy đi thuyết pháp trong cộng đồng người Việt khắp nơi, từ đất nước Canada qua đến hầu hết các tiểu bang nước Mỹ, đến cả Nhật Bản, Hàn Quốc. Tiếng tăm của Thầy bay về cả Việt Nam. Bà vào youtube kiếm tên Thầy, muốn nghe bằng tiếng Việt hay tiếng Anh đều có.

 

Trước đây khi Má tôi còn sống thì bà thường đi Chùa, sau khi Má mất đến nay chỉ còn vài anh chị em trong gia đình có đi Chùa vào những dịp lễ lớn. Riêng tôi trở thành con chiên của Chúa, nhưng vì mê các món ăn chay của Chùa Trúc Lâm rất ngon như chả giò, canh chua, đậu hũ chiên giòn, đậu hũ kho thơm, nên thỉnh thoảng có ghé mua. Bữa đó, sau khi mua đồ chay, tôi thấy trong tủ sách của Chùa có sách của Vĩnh Hảo, người gốc Nha Trang từng là một tu sỹ Phật Giáo, sau đó hoàn tục, hiện đang ở California. Tôi đã đọc và yêu mến khung cảnh bàng bạc của quê hương qua những ngôi Chùa bình yên mùi khói nhang hoà quyện với tiếng gõ mõ của từng thời kinh sớm chiều, cũng như những triết lý giản đơn nhưng thẳm sâu giữa đời và đạo trong sách của Vĩnh Hảo. Thầy Pháp Hoà thấy tôi ngắm sách liền bảo:

 

– Chị thích thì đem về đọc, khi nào xong đem lại trả cũng được.

 

– Nếu tôi giữ luôn, được không Thầy?

 

– Lúc đó thì em tặng chị, còn bây giờ thì cho… mượn!

 

Nói đùa vậy thôi, chớ tôi có thời gian dài làm MC cộng đồng nên Thầy Pháp Hoà cũng từng thay mặt Chùa đi dự những buổi Hội Chợ Tết, Trung Thu, Gây Quỹ…tôi nào dám lấy sách của Thầy, mang tiếng… xấu cho MC thì sao!

 

Hoá ra, tôi là hàng xóm của một “ngôi sao”. Chị bạn bên Dallas kể, chiều nào đi làm về, lúc nấu cơm chị mở youtube nghe Thầy, mỗi lần nghe xong, chị thấy hết muốn cằn nhằn chồng con nữa, mà thương yêu nhau hơn. Nhỏ bạn bên Pháp thì nói, nghe Thầy để hiểu hai chữ “vô thường” của cuộc đời, nhưng vì hay… quên nên phải nghe mỗi ngày để nhớ mà sống chậm hơn. Một chị khác bên Việt Nam tâm sự với tôi, có đêm chị nằm mơ thấy được nghe Thầy giảng, tỉnh dậy mà cõi lòng bình an chi lạ.

 

Tôi liền tìm YouTube nghe thử, và quả thật là hay. Giọng nói từ tốn, không khuyến khích mê tín, cuồng đạo, rất gần gũi, có duyên và hài hước nhẹ nhàng.

 

Một vị tu sỹ, lãnh đạo tinh thần của một tôn giáo, khi có tài giảng thuyết hay, hấp dẫn, sẽ thu hút được đám đông. Những yếu tố tạo nên bài giảng hay, có thể kể đến: nội dung bài giảng, cách chuẩn bị soạn thảo bài giảng, lối trình bày bài giảng, và… diện mạo bên ngoài của vị giảng thuyết (yếu tố cuối cùng này cũng khá quan trọng á!). Thầy Pháp Hoà có dáng dấp, phong thái, khuôn mặt, ánh mắt, nụ cười làm cho người đối diện lập tức cảm mến và tin tưởng nên Thầy có lượng “fan” đông đảo là chuyện dễ hiểu.

 

Để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu Phật Pháp của Phật tử khắp nơi, khi Chùa Trúc Lâm khá chật hẹp, Thầy Pháp Hoà đã xây dựng Westlock Meditation Center, còn gọi là Tu viện Tây Thiên, vùng ngoại ô Edmonton. Không gian tu viện Tây Thiên thân thương thanh tịnh, phảng phất bóng dáng quê nhà, có chút hiền hoà đặc trưng của làng quê châu Âu hay Bắc Mỹ. Những đồi cỏ xanh mướt xen kẽ những hàng cây táo, vườn hồng ngát hương, các loài cây có tán xanh rì gợi cho người thưởng ngoạn thấy lòng tĩnh tâm, buông xả, hít thở trọn vẹn vào cái không khí tĩnh lặng, trong veo và thanh tao ấy. Mỗi năm Tây Thiên đón chào cả ngàn du khách từ khắp nơi (nhiều nhất là từ Mỹ) đến viếng và tham dự các khoá tu học suốt bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông.

 

Và thế là Edmonton bỗng dưng… nổi tiếng, ít nhất là trong giới Phật Tử muôn phương. Mấy đứa bạn ngày xưa hay “chọc quê” tôi ở vùng “khỉ ho cò gáy”, nay không tiếc lời ngợi khen nức nở, hứa hẹn sẽ bay đến Edmonton để diện kiến Thầy Pháp Hoà bằng xương bằng thịt, rồi sau đó tiện thể sẽ ghé… thăm tôi!

 

Ai đó đã nói “yêu em lòng chợt từ bi… bất ngờ” quả không sai!

 

Kim Loan

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.