Hôm nay,  

Người trồng rừng

24/08/202217:34:00(Xem: 2828)

Truyện ngắn

photo-1604400557709-fdcfba8ace1a

 

Để khám phá những đức tính thật sự về một con người, phải có được cơ may quan sát hành động của người ấy ròng rã hàng năm trời. Nếu như hành động ấy không màng đến lòng ích kỷ, nếu như tư tưởng điều khiển hành động là cả một tính cao thượng vô biên, nếu như hành động không hề tìm kiếm sự đến đáp ở bất cứ nơi nào, và hơn nữa hành động ấy đã để lại cho đời những dấu ấn thật rõ rệt, thì ta đang đối diện với một tính cách phi thường, không thể nào lãng quên được, và nhận xét này không thể nhầm lẫn.

 

Khoảng chừng hơn bốn mươi năm trước, tôi đã đi bách bộ một quãng đường dài, trên những đỉnh cao vút mà du khách không hề biết đến, trên dãy núi Alpes rất cổ kính, đến tận sâu vùng Provence, ở độ cao khoảng một ngàn ba trăm mét. Chỉ có loại oải hương dại mọc được trên ấy. Tôi đi dọc hết vùng ấy trong ba ngày trời, và đến một nơi vô cùng hoang vu. Tôi đã hết cạn nước từ chiều qua. Ở đây có khoảng năm sáu ngôi nhà không mái, bị gió mưa bào mòn, có một ngôi giáo đường với mái đã sụp, cũng ngay hàng thẳng lối như các ngôi làng có người sinh sống, nhưng ở đây thì chẳng có ma nào.

 

Đó là vào một ngày tháng sáu, nắng lên rực rỡ, nhưng ở mảnh đất khô cằn không nơi trú và cao vút trời xanh, gió đang thổi một cách rùng rợn. Tiếng hú bên trong những xác nhà là tiếng gầm của loài thú dữ bị quấy rầy lúc đang ăn. Tôi phải cuốn gói đi thôi. Đi thêm năm giờ đồng hồ nữa, tôi vẫn không tìm thấy nơi nào có nước, và không có dấu hiệu nào cho tôi hy vọng là sẽ tìm thấy được. Tất cả đều khô cằn, cùng loại cỏ cứng ngắc. Hình như đằng xa kia có hình bóng đen đen của người đang đứng. Tôi nghĩ đó chỉ là một thân cây lẻ loi.

 

Tôi tình cờ tiến bước về phía ấy. Đó là một người chăn cừu. Khoảng độ ba mươi con cừu đang nằm trên nền đất nóng hổi cạnh ông ta. Ông đưa bầu nước cho tôi uống rồi dẫn tôi đến chuồng cừu ở sườn đồi. Ông lấy nước từ một cái hố khá sâu, trên đó là một cái tời rất thô sơ. Ông ta nói rất ít, nhưng rất tự tin. Thật là điều hi hữu ở cái xứ xơ xác trống vắng này. Nhà của ông không phải là căn lều mà là một ngôi nhà thật sự bằng đá, và ta có thể thấy rõ việc ông đã làm là xây lại mọi thứ bên trên sự hoang tàn lúc ông vừa mới đặt chân đến. Mái nhà rất chắc và không thấm nước. Gió đập vào mái ngói như thể tiếng sóng trên bãi biển. Đồ đạc trong nhà rất ngăn nắp thứ tự, chén đĩa rửa dọn sạch sẽ, nền nhà quét sáng bóng, súng thì đã cho dầu mỡ đầy đủ, trên bếp lửa là nồi súp đang sôi; tôi cũng nhận thấy là ông đã cạo râu nhẵn nhụi, nút áo thì may khâu thật chắc chắn, áo quần được vá rất khéo đến nỗi không nhìn thấy chỗ vá. Ông mời tôi ăn súp cùng ông, và khi tôi đưa ông túi thuốc hút của mình thì ông bảo là ông không hút. Tất nhiên là tôi sẽ qua đêm ở đây, vì muốn đến ngôi làng gần nhất thì phải đi thêm ngày rưỡi nữa.

 

Có khoảng bốn hoặc năm ngôi làng rải rác, rất xa nhau trên các sườn đồi. Cư dân là những người tiều phu làm nghề đốt than củi. Nơi đây cuộc sống rất kham khổ. Ai cũng nung nấu ý định sẽ rời khỏi nơi chốn này.

 

Người chăn cừu không hút và đi lấy một cái túi nhỏ rồi đổ từ trong túi ra một mớ hạt sồi. Ông nhìn thật chăm chú vào từng hạt một, để hạt tốt và hạt xấu riêng ra. Tôi hút ống điếu. Tôi hỏi ông có muốn tôi giúp không, ông bảo đó là việc của ông. Thật đúng vậy: khi thấy ông chăm chú làm công việc đó, tôi cũng không nói thêm, và để ông làm. Khi ông đã chọn xong, lại chia ra mười hạt cho mỗi bọc nhỏ. Rồi lại xem cho kỹ lần nữa, và loại những hạt bị sứt một chút. Chỉ khi nào có được một trăm hạt hoàn hảo thì mới ngưng và chúng tôi đi ngủ. Được ở bên cạnh ông cho tôi cảm giác thật bình an. Tôi lại xin phép ông được ở lại thêm ngày mai nữa; ông cho đó là việc tự nhiên thôi, và tôi cảm thấy mình không hề làm phiền ông.

 

Không nhất thiết tôi phải ở lại thêm, nhưng tôi rất kinh ngạc và tò mò muốn hiểu thêm nữa. Sáng hôm sau, ông lùa đàn cừu đến bãi cỏ. Trước khi đi, ông mang bọc hạt sồi nhúng vào một chậu nước và mang theo một thanh cây sắt. Rồi để cho chú chó canh gác đàn cừu, ông bước lên đồi cao; tôi sợ rằng ông sẽ đến chỗ tôi đứng và trách sao tôi lại tò mò như thế, nhưng ông hỏi tôi có muốn đi cùng không nếu tôi không có dự định làm việc khác. Đến khoảng đồi mà ông đã dự tính trước, ông cắm cây sắt xuống, khoét một lỗ, rồi thả hạt sồi xuống, lấp đất lại. Tôi hỏi có phải vùng đất này là của ông không, ông bảo không, ông không biết của ai, có vẻ như là của cộng đồng, ông không quan tâm. Ông trồng một trăm hạt đó một cách thật là chăm chút.

 

Từ ba năm nay ông vẫn lủi thủi đi trồng cây như thế. Đã được một trăm ngàn cây, và hai mươi ngàn đã sống được. Trong số hai mươi ngàn đó, phải tính mất hết một nửa, do bọn gặm nhấm hoặc bất kỳ điều gì có thể xảy ra. Thế thì còn lại mười ngàn cây sẽ lớn lên ở khu đất mà trước đây trụi lủi không có lấy một cành cây nào.

 

Bây giờ tôi mới để ý đến tuổi tác của ông. Có lẽ ông đã ngoài năm mươi, năm mươi lăm, ông bảo. Tên ông là d’Elzéard Bouffier. Ông đã sở hữu một nông trại ở vùng đồng bằng. Ông đã có một cuộc sống đẹp, nhưng rồi cậu con trai duy nhất đã qua đời, rồi đến vợ ông. Ông lui vào sống cuộc đời yên lặng, cô độc với đàn cừu và chú chó. Ông thấy rằng cái xứ này sẽ chết khô vì thiếu cây cối, nên muốn cứu chữa tình thế. Phần tôi, vì cũng đang sống đơn độc cho dù tuổi đời còn non trẻ, nên rất nhạy bén với những tâm hồn lẻ loi. Tôi nói rằng trong ba mươi năm nữa, mười ngàn cây sồi  này sẽ rất tuyệt. Ông chỉ đơn giản trả lời rằng nếu như Trời cho ông sống thêm ba mươi năm nữa, ông sẽ trồng thêm vô số cây, nên mười ngàn cây này sẽ chỉ như giọt nước trong đại dương.

 

Năm sau đó, là trận giặc 1914, Thế chiến Thứ Nhất, và tôi đã gia nhập quân ngũ trong năm năm. Cuộc đời lính tráng khiến tôi không còn nghĩ đến cây cối nữa. Đúng ra tôi xem đó như là một kiểu sưu tập tem thư, và chuyện ấy đã đi vào quên lãng. Khi hết chiến tranh, có lúc tôi ước mong đi hít thở một chút không khí trong lành, và lại trở về nơi chốn hoang vu ngày trước. Vùng ấy vẫn không thay đổi. Nhưng nhìn từ xa tôi thấy như một đám sương mù thật dày bao trùm trên phần núi cao như một tấm thảm. Tối hôm trước, tôi đã nghĩ đến người chăn cừu, người-thợ-trồng-cây ấy: "Mười ngàn cây, thật là một khoảng không gian rộng lớn". Đã quá nhiều người ra đi mãi mãi trước mắt tôi trong vòng năm năm ấy nên tôi không lạ gì khi sẽ biết rằng ông d’Elzéard Bouffier cũng đã khuất núi, hơn nữa, khi mà ta hai mươi tuổi thì ta quan niệm rằng những người năm mươi chỉ là những ông già gần đất xa trời mà thôi.

 

Nhưng ông ta không chết, mà trái lại còn rất mạnh khỏe. Ông đã đổi nghề. Ông không còn sở hữu ba chục con cừu nữa, mà là cả trăm tổ ong. Ông chẳng quan tâm đến giặc giã. Ông vẫn điềm tĩnh tiếp tục công việc trồng cây. Những cây ông trồng vào năm 1910 giờ đây đã 10 tuổi và cao hơn ông và tôi.

 

Quang cảnh thật là ấn tượng. Trong năm năm, bao nhiêu cây sồi lá dài, cây sồi rừng đã cao ngang vai tôi, trải dài ngút ngàn thật là đẹp mắt. Và những khóm cây bu-lô (1) có vẻ như ngày càng lan nhanh ra, nhưng ông không cần để ý, ông chỉ đơn giản tiếp tục công việc của ông.

 

Rồi khi đi xuống bên dưới, tôi nhìn thấy nước chảy ra từ những mạch suối mà trước đó rất khô cằn. Đó là hiện tượng tuyệt vời nhất mà tôi từng được chứng kiến. Tôi có đề cập trước đây về những ngôi làng buồn thảm được xây trên những khu dân cư vào thời cổ xưa đế quốc Gô Loa La Mã mà các nhà khảo cổ học đã nghiên cứu để biết rằng thuở đó dân làng phải sử dụng những bể chứa nước mưa để có nước dùng. Rồi gió cũng đưa một số loại hạt đi khắp nơi, và cùng với sự xuất hiện của nguồn nước, ta thấy nhan nhản nào là liễu rủ, liễu gió, đồng cỏ, vườn tược, hoa lá... Những sự thay đổi ấy diễn ra một cách thanh thản nên dân chúng xem như là đã hiện hữu như thế từ bao đời rồi và cũng không cảm thấy ngạc nhiên. Có những người thợ săn mãi chạy theo thỏ hoặc heo rừng cũng nhận thấy cây cối đã tăng lên nhưng họ cho rằng đó là những điều kỳ diệu của thiên nhiên. Thế nên không một ai đụng đến kiệt tác của người đàn ông tuyệt vời ấy. Nếu họ tỏ ra nghi ngờ thì họ đã làm điều khiến ông phật lòng rồi. Có người nào trong các làng mạc, hoặc trong chính quyền có thể nghĩ đến một đức tính xuất phát từ lòng độ lượng tuyệt vời nhất trên đời ấy không nhỉ?

 

Kể từ năm 1920, tôi thường đến thăm d'Elzéard Bouffier. Tôi chưa bao giờ thấy ông chịu khuất phục hoặc hoài nghi điều gì. Ta có thể hiểu rằng để có được thành công vượt bực như thế, phải chiến thắng mọi thứ vì nỗi đam mê cuồng nhiệt, phải đấu tranh thật nhiều trước nỗi thất vọng. Ông đã trồng hơn mười ngàn cây thích, nhưng chúng đã chết sạch. Năm sau ông đổi sang trồng cây sồi rừng như trước. Ta cũng không nên quên rằng ông đã thực hiện mọi công việc trong một nỗi cô đơn tuyệt đối; tuyệt đối đến nỗi vào giai đoạn cuối đời ông đã mất hẳn thói quen nói chuyện. Hoặc là ông thấy không còn cần thiết để nói nữa?

 

Vào năm 1933, có một nhân viên kiểm lâm đến viếng ông. Anh viên chức này ra lệnh cho ông không được đốt lửa bên ngoài rừng, e rằng sẽ nguy hại đến sự lớn mạnh của khu rừng. Anh nhân viên ngây ngô ấy bảo rằng đây lần đầu tiên anh ta thấy một khu rừng tự nó phát triển cây cối. Vào thời điểm ấy, ông d'Elzéard đi trồng cây cách nhà ông mười hai cây số. Lúc đó ông đã bảy mươi lăm tuổi rồi, nên đã xây một nhà nhỏ bằng đá ngay nơi ông đang trồng trọt.

 

Năm 1935, một phái đoàn của chính quyền đến tham quan khu rừng thiên nhiên. Có cả nhân vật cao cấp của cơ quan Thủy lâm, đại biểu Quốc hội, và các chuyên gia. Họ thuyết trình toàn những lời vô ích. Họ quyết định làm nhiều việc, trong đó chỉ có một việc là có ích: khu rừng sẽ được Chính phủ bảo vệ, và cấm không được đến đốt than ở đó.

 

Tôi có người bạn làm đội trưởng của đám nhân viên Thủy lâm; tôi giải thích cho anh ta về bí mật của khu rừng, và chúng tôi đến thăm d'Elzéard. Anh bạn của tôi biết giá trị của sự việc và bảo ông ấy là một lực sĩ của Trời. Năm 1913, khu này chỉ là một bãi sa mạc. Giờ đây chúng tôi không thốt nên lời khi đứng ngắm toàn bộ cảnh vật. Một khu rừng dày đặc cây cao từ sáu đến bảy thước. Cuộc sống đạm bạc và sự thanh thản bình tâm đã mang lại cho ông cụ một sức khỏe siêu việt.

 

Toàn bộ công trình của ông cụ chỉ trải qua một đợt nguy cơ vào năm giặc giã 1939. Xe cộ chạy bằng ga (2) và dân chúng không đủ củi để dùng. Họ bắt đầu chặt cây sồi từ năm 1910, nhưng vùng đó nằm xa mạng lưới đường sá, nên không mang lại lợi nhuận, và họ đã bỏ dở. Ông già chăn cừu không hề hay biết điều gì. Ông sống cách đó ba mươi cây số, bình thản tiếp tục công việc của mình, không màng đến Thế Chiến thứ Nhì đang diễn ra cũng như trước đó đã không biết đến Thế Chiến Thứ Nhất.

 

Tôi gặp d'Elzéard Bouffier lần cuối vào tháng 6, 1945. Năm đó ông đã tám mươi bảy tuổi. Tôi đi xe đò, và đi ngang những ngôi làng mà tôi thấy rất lạ lẫm, phải nghe chính xác tên ngôi làng thì mới xác nhận đây là nơi tôi đã đến năm xưa; lúc đó chỉ có chừng mươi ngôi nhà, với điều kiện sống rất thảm hại, họ cứ ngày qua ngày lây lất như thế. Nhưng bây giờ mọi thứ đã đổi thay.

 

Những ngôi nhà khang trang mới mẻ, chung quanh là vườn rau trái sum suê, có cả muôn hoa đua nở, hải quỳ, mõm chó… Bây giờ nơi đây đã trở thành một nơi mà ai cũng muốn đến sinh sống.

Đi một đoạn nữa, thì đầy những nông trại với ruộng lúa mạch đen, đại mạch, những cánh đồng cỏ xanh mướt, những con suối với khu rừng sầm uất; qua những cơn mưa và tuyết đổ nay đã có nước róc rách chảy khắp nơi thật xinh đẹp. Và họ đã đào những con kênh dẫn nước đi khắp nơi. Người dân từ những vùng đồng bằng đắt đỏ đã đến đây lập nghiệp, và trên đường làng, đầy dẫy những cánh đàn ông tráng kiện và phụ nữ tươi cười, những đám trẻ xinh xắn khỏe mạnh, mọi người vui chơi trong những lễ hội đồng quê.

 

Nếu như ta so sánh dân số lúc xưa sống cơ cực bần hàn với ngày nay, thì hơn mười ngàn nhân mạng ở nơi đây phải cám ơn d'Elzéard Bouffier đã mang hạnh phúc vô biên đến cho họ. Tôi thầm nghĩ chỉ một con người đơn độc, sống với điều kiện về thể chất và tinh thần rất hạn chế, đã tự mình có thể làm mọc lên một miền Đất Hứa từ sa mạc khô cằn sỏi đá, là một bằng chứng về thân phận làm người thật đáng nể phục, thật diệu kỳ thay!

 

Nhưng khi xét đến phải cần bao sự kiên trì trong tâm hồn cao thượng và sự miệt mài say mê trong tính độ lượng để đạt được thành quả ấy, tôi cảm thấy kính trọng vô hạn người nông dân già nua không có văn hóa ấy, đã hoàn thành xuất sắc công trình vĩ đại mà chỉ có Thượng Đế mới thực hiện được.

 

Elzéard Bouffier đã về trời một cách bình thản năm 1947 ở dưỡng đường Banon.

 

Jean Giono

(Tháilan lược dịch)

 

Ghi chú:

 

(1) Loại cây mọc ở những vùng đất khô cằn, lạnh lẽo, lá nhỏ...

(2) Gazogène: đốt củi để chế biến thành ga.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.