Hôm nay,  

Hoạn quan

26/08/202210:22:00(Xem: 4526)
Tìm hiểu

thaigiam
Thái giám triều Nguyễn.

  

Người Việt Nam không còn lạ gì những nhân vật thái giám trong các phim bộ Hồng Kông, những người đàn ông có dáng dấp và giọng nói ẻo lả như phụ nữ. Ai cũng biết thái giám là những người đàn ông bị thiến, để phục vụ cho vua và hoàng tộc trong cấm cung. Đặc biệt là Quế Công Công, thái giám giả Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh Ký, đã làm những chuyện động trời với Kiến Ninh công chúa, em của vua Khang Hy, và với 2 tiểu thơ của Mộc Vương phủ, bị Thiên Địa Hội đưa vào hoàng cung, nơi bí mật để Vi Tiểu Bảo quản lý.


Thái giám ăn hối lộ của các cung phi, để sắp xếp cho được vào phục vụ nhà vua, thái giám rình rập nghe tin tức, làm gián điệp cho các hoàng hậu, hoàng thái hậu và giữa các quý phi...

Các triều đình phong kiến Việt Nam ngày xưa cũng có hoạn quan phục dịch, nhưng ít có ai nhắc đến họ, vì họ bị xem như những nô tài âm thầm trong cung. Hơn nữa, không có những hoạn quan chuyên quyền, lộng hành, gây bè đảng, nhũng nhiễu triều chính như ở bên Trung Hoa.

Dưới thời Đế Quốc La Mã, những thanh niên khoẻ mạnh được tuyển chọn đem đi thiến làm hoạn quan. Ví dụ như Bagoas là hoạn thần được Alexander Đại Đế sủng ái, còn vua Neron thì có hoạn quan tên Sporus.

Hoạn quan Trung Hoa

      Ngụy Trung Hiền - Đại thái giám lũng đoạn minh triều  hoan-quan-la-gihoan-quan-la-gi


Các triều đại phong kiến Trung Hoa xa xưa, từ đời nhà Tùy, nhà Đường, nhà Tống đã có những cơ cấu Nội Thị do hoạn quan đảm nhiệm, trông coi mọi việc trong cung đình. Hoạn quan nhà Tống có người thống lĩnh quân đội, đến đời nhà Thanh thì chức Tổng Quản Thái Giám đứng đầu các thái giám. Có nhiều tên và chức vụ để chỉ hoạn quan: Thái giám, Công công, Tự nhân, Yêm nhân, Nội thị, Thị nhân, Yêm hoạn, Hoạn giả, Trung quan, Nội thân, Nội giám. Từ ngữ "Thái giám" xuất hiện sớm nhất vào đời Đường Cao Tông năm 662, chỉ những người lo về xa giá, y phục trong hoàng cung. Người thái giám tất yếu phải là hoạn quan.

Đến thời nhà Minh, quyền thế thái giám được mở rộng ra, có người được cử làm sứ giả, coi xét quan lại, trông coi quân đội, cho nên sinh ra lộng quyền. Nhà Thanh hạn chế quyền hạn của thái giám, chỉ làm quan đến tứ phẩm. Có chức Tổng Quản Thái Giám để chi huy thái giám.

Nguồn gốc hoạn quan Trung Hoa

Theo các nhà nghiên cứu, nguồn gốc do 3 nguyên nhân sau đây:

– Hoạn quan là tội phạm, tù binh hoặc phản nghịch, bị cắt bỏ bộ phận sinh dục.

– Hoạn quan là cống phẩm của địa phương tiến cống vào cung đình.

– Tự nguyện xin làm hoạn quan để mưu cầu phú quý. Nhiều gia đình quá nghèo, đem con vào làm thái giám.

Một số phương pháp yêm cát

Yêm cát là thiến.

        https://encrypted-tbn0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRJ995Y3Sh_x6jbSjcWtZtRV_2CD9a8_J_is9zOVUX8EbykmA22  Ác mộng kinh hoàng 3 cực hình tĩnh thân thành thám giám - Ảnh 3 


Ngoại trừ những người khiếm khuyết bộ phận sinh dục từ lúc sinh ra, những hoạn quan phải trải qua "Thủ thuật" hết sức đau đớn gọi là yêm cát hay cung hình, tàm thất, hù hình, âm hình.

Bốn phương pháp để thiến con trai:

1. Cắt toàn bộ dương vật và dịch hoàn
2. Chỉ cắt bỏ dịch hoàn
3. Đè cho bể nát dịch hoàn
4. Cắt bỏ dương vật

Còn có phương pháp thiến nữa gọi là "Thằng hệ pháp" tức là dùng dây cột chặt dịch hoàn của đứa bé, lâu dần bộ phận sinh dục mất khả năng phát triển và chết đi. Hoặc cho đứa bé uống một thứ thuốc tê, gọi là ma tuý dược, rồi dùng kim chích hoài vào dịch hoàn khiến cho bộ phận sinh dục không còn công dụng được nữa.

Tác giả Carter Stent mô tả việc thiến ở cuối đời nhà Mãn Thanh như sau:

"Trước khi thiến, người muốn làm thái giám được đặt nằm nghiêng trên một cái giường thấp, và được hỏi lần cuối cùng là có hối hận gì khi bị thiến hay không. Nếu trả lời không, thì một người giữ chặt cái bụng người đó, 2 người khác banh hai chân ra và giữ cho không cục cựa. Băng vải được quấn chặt ở bụng dưới và ở 2 bên đùi. “Bịnh nhân” được cho uống một thang thuốc mê gọi là ma phế thang. Bộ phận sinh dục được chà xác bằng nước ngâm ớt. Cả dương vật và dịch hoàn được cắt "xoẹt" một cái sát đáy. Một cái nút kim loại, được gắn ngay vào lỗ dẫn nước tiểu. Vết thương được băng lại bằng giấy bản, bên ngoài quấn vải thật chặt.

Người phụ trách việc thiến gọi là "Đao tử tượng" và con dao bén gọi là "Yêm đao". Những đao tử tượng dìu người bị thiến đi quanh phòng ba giờ liền trước khi cho nằm nghỉ. Người bị thiến vừa đau đớn vừa khát nước vì mất máu, nhưng không được uống nước suốt 3 ngày để không cho tiểu tiện. Sau 3 ngày, băng vải được cởi ra, và cái nút được rút ra. Nếu bịnh nhân đi tiểu được thì xem như thành công. Trái lại, nếu không đi tiểu được thì chỉ có nước chờ chết.

Nhiều gia đình chuẩn bị cho con mình làm thái giám ngay lúc còn nhỏ. Một bà Vú đặc biệt được thuê để thực hiện, từ lúc còn nằm trong nôi. Bà vú có một thủ thuật riêng, mỗi ngày 3 lần, nắn bóp dịch hoàn đứa trẻ khiến nó khóc thét lên. Sức bóp càng ngày càng tăng thêm, và cơ quan sinh dục đứa bé bị hủy hoại. Khi lớn lên, chẳng những mất khả năng sinh dục, mà dương vật càng ngày càng teo dần khiến cho đứa trẻ có nhiều nữ tính. Không có trái cổ, hai vú nhô cao, mông nở, giọng nói lanh lảnh, dáng điệu trở thành bán nam bán nữ.


Những kẻ thao túng chuyện mây mưa của hoàng đế


Ở hậu cung có cả ngàn cung phi mỹ nữ, làm sao mà quản lý cho hết được. Muốn được xếp ưu tiên thì phải chiều chuộng thái giám. Bỗng nhiên thái giám trở thành những kẻ thao túng chuyện mây mưa của hoàng đế. Thái giám còn có nhiệm vụ ghi chép tên tuổi, ngày giờ mà cung phi được ăn nằm với hoàng đế, để sau đó, nếu cung phi có thai thì đem ra đối chiếu thời gian mà xác định đứa bé có phải là con của ông vua hay không. Việc nầy rất quan trọng trong việc thừa kế ngai vàng, xác định hoàng tử, thái tử.


Hoạn quan Việt Nam

https://encrypted-tbn0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcTgMGJSxB1Hb0uquUTCdy_LHcN88xDkmMP1DBApggl90ac2S6PdtQ 

Nghĩa trang thái giám ở chùa Từ Hiếu, Huế.


Ở Việt Nam, hoạn quan được ghi nhận đã có từ thời nhà Lý.

Đến nhà Nguyễn thì hoạn quan chia làm 5 trật:


– Quản Vụ Thái giám

– Kiêm Sự Thái giám

– Thừa Vụ Thái giám

– Cung Sự Thái giám

– Cung Phụng Thái giám.


Việc tuyển chọn thái giám ở Việt Nam thì theo lịnh của triều đình, ưu tiên cho những trẻ em bán nam bán nữ bẩm sinh. Người dân nào sinh con có khuyết tật đó, thì được quan chức sở tại đến kiểm tra, và dâng sớ tâu lên triều đình. Cha mẹ nuôi con đến 13 tuổi, thì Lễ Bộ đưa vào cung tập sự làm hoạn quan. Làng nào có hoạn quan thì được miễn binh lính, phu phen, tạp dịch, và cả sưu thuế nữa.

Nếu bẩm sinh không đủ số, thì thanh niên nào tình nguyện sẽ được xem xét tuyển chọn. Có lẽ vì nghi kỵ Tả Quân Lê Văn Duyệt, vốn là thái giám, nắm nhiều binh quyền, cho nên vua Minh Mạng ban chỉ dụ quy định thái giám chỉ làm việc hầu hạ trong cung mà thôi. Tấm bia khắc toàn bộ văn bản của chỉ dụ nay vẫn còn trong Văn Miếu ở Huế.

Rút kinh nghiệm từ những bậc tiền bối, bị thái giám nổi loạn chuyên quyền, đến thời Minh Mạng (1820-1841) vua đã ban hẳn một chiếu chỉ riêng dành cho thái giám: “Cho họ người nào việc ấy để sai khiến hầu hạ, nhưng mãi mãi không cho dự vào giai và phẩm hàm quan chức. Vì chức vụ của họ là để nội đình sai khiến và truyền lệnh mà thôi. Tất cả triều chính và việc ngoài đều không được tham dự, kẻ nào vi phạm phải trừng trị nặng, không khoan tha. Trẫm đã dặn dò, hết sức mưu tính sâu xa cho đời sau…”


Thái giám Việt Nam có riêng một nghĩa trang trong khuôn viên chùa Từ Hiếu, cách Huế chừng một cây số. Chùa Từ Hiếu còn được gọi là Chùa Thái Giám nữa.

Những danh tướng xuất thân từ thái giám

Ba thái giám trở thành danh tướng Việt Nam là Lý Thường Kiệt, Hoàng Ngũ Phúc và Lê Văn Duyệt.

Lý Thường Kiệt (1019-1105)


https://encrypted-tbn3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRS6Ws7mo67320WEqHC_JxJIZXv7R5ntWHfJpqc4eSP9dB9fBE8  http://daidoanket.vn/Pictures/bao%20tuan/_2011/221/2011_221_7_anh3.jpg


Là một danh tướng xuất thân từ hoạn quan thời nhà Lý, đời vua Lý Thái Tông. Theo Gia Phả họ Ngô Việt Nam, thì ông tên là Ngô Tuấn, con của Sùng Tiết Tướng Quân là Ngô An Ngữ. Cũng có tài liệu nói ông họ Quách. Vì gia đình có công, cho nên nhà vua cho mang họ Lý, Lý Thường Kiệt.

Năm 22 tuổi, vì gương mặt xinh đẹp nên được sung vào làm Hoàng Môn Chi Hậu, là thái giám phục vụ cho vua và hoàng hậu. Trong 12 năm làm thái giám, danh tiếng của ông ngày càng nổi bật lên. Lý Thường Kiệt là một danh tướng có chiến thắng lẫy lừng là phá Tống, bình Chiêm.

Hoàng Ngũ Phúc (1713-1776)

https://encrypted-tbn2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcR_KfPk_K6kThDEqzfWEKjUQyIx6nPKYRoVeYnaKCoF6RU9prmO Về cuộc Nam chinh của Việp Quận công Hoàng Ngũ Phúc -0

Hình minh họa Hoàng Ngũ Phúc (phải). Mộ Hoàng Ngũ Phúc (trái). 


Là danh tướng thời Lê Mạt, Trịnh Nguyễn phân tranh và Tây Sơn khởi nghĩa. Hoàng Ngũ Phúc người xã Tân Mỹ, huyện Yên Dũng, Bắc Giang. Ông xuất thân là một hoạn quan, nổi tiếng là có nhiều mưu kế. Giữ chức Nội Sai trong Hình Phiên. Ông có công dẹp loạn Nguyễn Hữu Cầu và vào Phú Xuân đánh bắt Trương Phúc Loan, chấm dứt giai đoạn Trịnh Nguyễn Phân Tranh kéo dài trên 200 năm, mà Sông Gianh là ranh giới.

Lê Văn Duyệt (1764-1832)

https://encrypted-tbn2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcSWD8sQsjJpnnvT-McpeZHe70orP8IUyeRI_zQnIZn_ZuI4c5se https://encrypted-tbn1.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcR3ByynDEQFmJRVlVr50kJ3yrbP4Qiw9CygIS970zpTn8XY2sxS


Người thái giám thứ ba trở thành danh tướng, một trong những khai quốc công thần của nhà Nguyễn là Tả Quân Lê Văn Duyệt.

Ông theo vua Gia Long năm 17 tuổi làm thái giám, là người bán nam bán nữ bẩm sinh chớ không phải bị thiến. Lê Văn Duyệt giúp Chúa Nguyễn Phúc Ánh đánh thắng nhiều trận được xem là khai quốc công thần của nhà Nguyễn. Đền thờ ông hiện tại còn ở Sài Gòn, được gọi là Lăng Ông Bà Chiểu.

Nhiệm vụ thái giám

Trong cung cấm, hoàng gia đông đúc, tam cung lục viện, cần người phục vụ hằng ngày cho vua, hoàng hậu, các cung phi, hoàng tử, công chúa... Nhà vua không an lòng để cho những người đàn ông bình thường sống chung với những người đẹp được tuyển chọn khắp nơi đưa vào cung. Cho nên, những quan chức ấy phải bị thiến. Những người bị thiến sau tuổi trưởng thành, dù mất khả năng sinh dục, nhưng họ vẫn còn những khao khát và đòi hỏi về sinh lý.

Trong nhiều triều đại, thái giám được cho ngủ chung với đàn bà trong cung để cho các phi tần có chút khí dương ngõ hầu ít bịnh tật. Đối với những thái giám chỉ bị cắt dịch hoàn, họ còn khả năng cương cứng, cho nên đã có những lời đồn đãi về thái giám với cung phi.

Đời sống của hoạn quan

Họ sống đầy đủ về mặt vật chất nhưng thiếu thốn về mặt tinh thần. Người xưa rất coi trọng việc truyền giống, kẻ tuyệt chủng bị kết án nặng nề. "Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại", là có 3 điều bất hiếu, tội lớn nhất là không có con nối dõi tông đường. Đau khổ vì mặc cảm bị người đời khinh rẻ. Buồn vì cuộc đời cô đơn, khi nhắm mắt làm ma lang thang không nơi nương tựa. Vì vậy, nghĩa trang của thái giám Việt Nam đặt ở trong chùa để nương nhờ hương khói mai sau.

Giữ gìn bảo cụ

Bộ phận sinh dục của hoạn quan, sau khi cắt ra, được giữ gìn kỹ lưỡng, xem như một báu vật, gọi là “bảo cụ”. Bảo cụ được tẩm vôi bột, hút hết máu để không hôi thúi. Của quý được xem là bảo vật, vì mỗi khi được thăng quan thì phải trình bảo cụ cho thái giám thượng cấp, để chứng minh thật sự là đã bị thiến. Tránh những trường hợp như của Quế Công Công Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh Ký, làm chuyện động trời như đã nói trên.

Trường hợp thứ hai là, khi chết bảo cụ phải được mang theo cho được chết toàn thây.


Trường hợp thứ ba là vì niềm tin cho rằng bộ phận sinh dục có thể mọc lại nếu uống thuốc và ăn uống các loại tráng dương. Do đó, nhà Thanh cứ mỗi 3 năm thì thái giám phải qua kỳ "Tiểu tu", 5 năm qua kỳ “Đại tu” để cho thái giám chuyên trách khám xét xem ngọc hành và dương vật có mọc lại không.

Ngoài việc thay đổi hình dạng, hoạn quan còn thay đổi tánh tình, trở nên nhỏ nhen, độc ác, tàn nhẫn. Thường bị són đái, nước tiểu chảy ra quần, gây mùi khó ngửi cho nên thường bị chê cười, chế giễu.

Hình dưới là ông Tôn Diệu Đình, người được xem là thái giám cuối cùng của Trung Hoa.


https://encrypted-tbn3.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcRFfW29pn5_sXX-6asjj_7PmilnFtQMdW1UwLD4yGs7lgsE75h0 a


Sự ích kỷ của các vua chúa ngày xưa, đã tạo ra một hình thức quan lại đặc biệt, đã làm khổ biết bao nhiêu thanh niên như thế. Năm 1996, ông Tôn Diệu Đình (Sun Yaoting) là người hoạn quan cuối cùng của chế độ phong kiến, nhà Mãn Thanh đã qua đời, chấm dứt chế độ hoạn quan Trung Quốc.

Trúc Giang MN

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.