Hôm nay,  

Dị nhân tân truyện

12/10/202220:44:00(Xem: 3487)
Truyện ngắn

sad man


Đất Mơ vào thời hiện đại vô cùng rực rỡ, xe cộ như mắc cửi, máy bay bay giàn trời luôn. Những tưởng thế là cực thịnh rồi, nào ngờ giờ đây người ta còn chế ra nhiều thứ còn kinh khủng hơn, xe tự động chạy chẳng cần người lái, thiên hạ lên xe cứ ngả người ra mà hưởng thụ mặc cho xe chạy sao đó thì chạy. Máy bay cũng tự bay, thậm chí bay ra trận bỏ bom ì xèo rồi bay về chẳng cần phi công nữa. Người đất Mơ thông minh tinh anh phát tiết, thiên hạ không biết rồi mai này sẽ còn tiến bộ đến đâu nữa.

 

Đất Mơ vốn là nơi tụ hội của trai tứ chiếng gái giang hồ, danh môn chính phái lẫn bàng môn tả đạo cũng kéo về phó hội. Nơi này xứng là đất lành chim đậu, trong số thiên hạ đổ về đây, có kẻ sanh sau đẻ muộn, tánh tình khù khờ, may nhờ tổ đãi sao ấy nên cũng đến được đất Mơ. Y vốn chậm lụt hậu đậu nên bạn bè thường gọi là thằng Đậu. Y vốn người đất Định xứ Nam, sanh ra và lớn lên trong một gia đình tiểu thương. Ba mẹ bảo bọc kỹ quá nên khi ra đời ngơ ngáo hổng làm được việc gì hết ráo. Tướng người y cũng tầm thước như mọi người, trán và phần từ chóp mũi trở xuống bằng nhau, bởi thế trí huệ cùn mằn chẳng khá, sinh lực lẫn sinh dục cũng yêu yếu làng nhàng, duy có phần giữa khuôn mặt và mũi khá dài đó là dấu hiệu của những ý tưởng, tư tưởng vô cùng vô tận. Khổ nỗi y chỉ biết suy tư thế thôi chứ chẳng thể biến thành hành động. Ý tưởng thì bao la nhưng cứ mãi là ý tưởng, kể cũng tiếc thay cho y!Vì xuất thân học trò dài lưng tốn vải, trói gà không chặt, hơn nửa đời ngơ ngáo chẳng làm nên trò trống gì, trong khi lũ bạn đồng trang lứa đã là ông nọ bà kia ngôi cao lộc cự. Y được cái thật thà như đếm, khổ nỗi người đời thì bảo:” Thật thà là cha đứa dại” thế thì đủ biết sự thể thế nào rồi.

 

Đậu đến đất Mơ làm cu li, hơn hai mươi năm ròng ngày ngày vào hãng cày chung với bọn cu li đen, trắng, mễ, xì, rệp… Thế rồi cơn dịch cúm Tàu tràn đến, người đất Mơ chết quá trời luôn, nhà thương không có thuốc chữa, hãng xưởng đóng cửa hà rầm, ấy vậy mà hãng nơi Đậu làm thì lại khác, chẳng những không đóng cửa mà còn làm ăn khấm khá hơn cả lúc thường. Đậu thật thà nhưng có tánh gàn, vào hãng không chịu đeo khẩu trang. Tay đốc công kêu lại:

 

– Hey, Dean (số là sau khi Đậu đậu quốc tịch nên đổi tên tây cho nó theo trào lưu thời thượng) Where is your mask?

 

Đậu sớn sác:

 

– Oh sorry, I didn’t see Mark today

 

– No, I say the mask

 

– It’s ok, I ready mark on my card

 

Tay đốc công xẵng giọng:

 

– Let me tell you again, wear your mask please!

 

– Oh, thanks sir, I will study more math

 

bấy giờ gã đốc công điên tiết giơ hai tay lên trời, vẻ mặt giận dữ, giọng gằn lại:

 

– I lost hear or you crazy?

 

Đậu lập tức trả lời như cái máy mà chẳng kịp nghĩ:

 

– Both

 

Thế là cả hãng được trận cười bể bụng luôn, cười như thể chưa từng được cười bao giờ.

Cũng với tay đốc công ấy, nhân mấy tháng trước Đậu được khen là cu li xuất sắc của tháng, y đến bắt tay và chúc mừng:

 

– Hi, Dean, congratulation for your success

 

Đậu lập tức phản ứng:

 

– Thanks, but I am not suck or sex

 

– Oh no, not my mean, I say success

 

Lần này Đậu sững cồ luôn:

 

– I am not suck or sex ok!

 

Tay đốc công giơ hai tay lên trời, mấy cu li làm chung với Đậu giải thích cho Đậu, bấy giờ Đậu mới nhận ra nên rối rít xin lỗi và cảm ơn tay đốc công.

 

Một lần nọ, Đậu cùng với một vị sư đi ra phi trường đón mấy vị sư khác từ đất Định sang. Đậu hăng hái bước ra thông dịch giúp cho mấy nhà sư mới sang. Nhân viên hải quan hỏi:

 

– How many months are you staying in the U.S.?

 

Đậu ba chớp ba nháng:

 

– Six monks.

 

Tay nhân viên hải quan lập lại câu hỏi lần nữa, lần này thì Đậu trả lời trớt quớt:

 

– They are no sick, good monks.

 

Tay nhân viên hải quan lắc đầu quầy quậy rồi đóng mộc để cho các nhà sư thông quan. Đại khái Đậu là thế, dầu có kể đến tết Công Gô cũng không hết chuyện của Đậu.

Đậu tập tành viết lách, làm thơ, thậm chí viết đối nữa chứ. Khổ nỗi Đậu viết được vài vế ra thì tắc tị, không làm sao viết được vế đối, vì thế đành để dở dang khơi khơi vậy, tỷ như câu:

 

– Cây sầu đông mọc ở đồng sâu chẳng ở đầu sông cớ sao đông sầu.

 

Hoặc là câu mới nhất gần đây:

 

– Nhân dân tệ sức mạnh không tệ quan vơ vét thậm tệ nên nhân dân tệ.

 

Không biết các cụ có ý kiến ý cò chi không chứ bọn bạn của Đậu thì cười khẩy:

 

– Khéo vẽ vời, dư hơi rảnh ráng, toàn sính những thứ nhọc thân mệt tâm mà chẳng được xu teng nào.

 

Đậu bày đặt đua đòi viết lách, mon men bon chen vào chiếu văn của các cụ. Ban đầu bài gởi đi mà chẳng bao giờ thấy có hồi âm, bao nhiêu điện thư gởi bài cứ hệt như NASA gởi thông điệp vào vũ trụ tìm kiếm người ngoài hành tinh, chỉ có gởi mà chẳng có phản hồi. Thế nhưng rồi “Thánh nhân đãi kẻ khù khờ”, ngày kia có một tờ báo lớn của cư dân gốc mít ở xứ đất Mơ chịu đăng bài của Đậu, đăng chơi vậy thôi chứ hổng có nhuận bút gì hết ráo. Nhiêu đó đủ làm Đậu sướng lâng lâng mấy ngày liền, tâm thần bay bổng, trí tưởng tượng lập tức được kích hoạt. Đậu ngỡ từ đây mình đã thành danh, đã là tay ghê gớm lắm rồi, có thể ngồi chung chiếu với các cụ mà xưa nay thiên hạ bảo là cây đa cây đề. Không thể dùng bút mực nào tả nổi sự hưng phấn của Đậu. Đậu hãnh diện đi đứng khuỳnh ra khác với vẻ khúm núm khép nép mọi ngày, mặt thì câng câng lên không còn nét rúm ró sợ sệt bẩm sinh. Đậu nói năng cũng khác hẳn đi, lý sự toàn những ngôn từ mà người nghe hiểu được chết liền! Hôm nọ Đậu cả gan viết bài bàn về nội chiến năm xưa, không hiểu là Đậu liều lĩnh hay quá thật thà mà dám viết chuyện tướng tá phe ta dụ khị binh lính ở lại chiến đấu còn mình thì bỏ chạy như vịt. Đậu còn tưng tửng dẫn chứng nhiều địa điểm giặc chưa đến mà ta đã chạy từ khuya, giặc tấn công quyết liệt mà phe ta chỉ lo kèn cựa không biết người biết ta… Thế là hôm sau cả một cơn bão tố ập xuống, vô số những lời chụp mũ chửi rủa và vô số đồ này đồ nọ được tung ra, nào là:” Ếch nằm đáy giếng bàn chuyện chính trị, ăn cháo đá bát, nằm vùng, thân địch, hai mang...” Trong khi ấy thì phe kia cũng chụp lên đầu Đậu bao  nhiêu là cái nón cối kinh khủng và đầy hoang tưởng:” Đồ phản động, thế lực thù địch, biệt kích cầm bút, xuyên tạc phá hoại đường lối chi đó...”. Sở dĩ bên kia chụp mũ giấy lên đầu đậu là vì Đậu dám viết sự thật về nạn những nhiễu hà hiếp dân, nạn quan lại tham ô, nỗi dân oan mất đất, mất nhà. Chuyện giặc Tàu cướp biển, đảo, lấn biên giới, tung hàng độc hại, cài người phá hoại. Rồi những nỗi bất công trong xã hội, những tu sĩ dựa hơi quan quyền để cầu danh văn lợi dưỡng và quan trọng hơn  hết là Đậu dám viết sự cắt đất nhượng biển của triều đình. Đậu bị đám tiểu yêu, tân hồng vệ binh trên mạng ảo ào ào tấn công, chúng phun ra những ngôn từ nhơ bẩn nhất mà chúng có thể nghĩ ra, chúng hung hãn và hồ đồ cứ như kiến lửa, chó săn và bò đỏ… Sự việc căng thẳng quá khiến bạn bè của Đậu sợ vạ lây nên giãn ra hết, không một ai dám lên tiếng bênh vực Đậu, thậm chi mật vụ còn bắn tin cho Đậu thông qua thân nhân:

 

– Bảo thằng Đậu im mồn đi, bằng không sẽ có rắc rối!

 

Đậu ngấm đòn, tâm tư lung lay, nhiệt huyết tụt xuống như hạ huyết áp. Đậu chán nản, quăng bút xé giấy thề không viết nữa. Đậu vốn biết người làng Vực xưa nay vốn thế, rất cực đoan, quá khích và hẹp hòi. Đậu quên béng lời của một vị thức giả từng cảnh báo:” Đừng có đụng đến người làng Vực, ổ kiến lửa đấy! Viết về cái hay của ta cái dở của địch thì ta thương địch ghét, bằng như viết về cái dở của ta cái hay của địch thì ta thù địch thương. Chú em đứng giữa mà phân tích cái hay cái dở của cả hai bên thì bị ăn đòn cả hai phía. Người làng Vực dù trong hay ngoài cũng đều chỉ thích nghe khen khoái nịnh chứ không chịu nghe sự thật. Chú em cẩn thận, giữ mồm giữ miệng, bằng không thì cả khối nón cối lẫn mũ giấy của hai bên ụp lên đầu”

 

Thật tình mà nói thì Đậu đâu có quên lời cảnh báo, chẳng qua là vì thật thà quá cỡ thợ mộc, cứ tin vào câu danh ngôn:” Khen mà khen phải là bạn ta, chê mà chê phải là thầy ta”. Lâu nay những tưởng “ Thuốc đắng dã tật” nào ngờ người làng Vực không bao giờ chấp nhận!

 

Khi Đậu tập tành viết lách, ban đầu làm thơ tình, cũng yêu nhau, xa nhau, thất tình ai oán. Rồi còn viết văn mộng mơ cô này cô kia… dần dần nhận thấy sao mà nhạt và vô duyên chi lạ nên dẹp hết. Kế đến viết về dân tình quốc sự, bấy giờ Đậu thấy khâm phục những người dám nói, dám làm những chuyện vì dân vì nước. Những cây bút can đảm dám lên tiếng vì sự thật, vì sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, dám tranh đấu cho nhân quyền và nhất là những người hy hiến vì chánh pháp. Trong số họ có không ít người trở thành thần tượng của Đậu. Nếu ngày xưa Đậu hâm mộ những người viết văn làm thơ thì giờ thấy buồn cười quá, ba mớ văn thơ ấm ớ vu vơ để rồi vụng về áo thụng vái nhau, thật vô tích sự, chẳng làm chi nên đời. Mạng net bây giờ toàn những chuyện nhảm nhí khoe ăn chơi, khoe bậy bạ để câu like. Nhóm sĩ người làng Vực thì toàn thơ dở hơi tình tay ba tay tư, tình già kép trẻ, gái tơ mơ đại gia…Đậu cười khẩy, gạt qua bên cho đỡ rối, nếu lúc trước ngứa miệng bình này nọ thì giờ Đậu chẳng còn muốn bình nữa, chỉ tổ mệt! Dần dần cư dân trên mạng cũng né Đậu như né hủi vì Đậu không chịu áo thụng vái nhau. Đại để là thế, thiên hạ cho Đậu khờ, Đậu hậu đậu, thậm chí có người còn bảo dị nhân hay quái nhân tân thời là vậy.

 

Đậu sống ở đất Mơ nhưng tâm tư vẫn thương nhớ đất Định, ngày đêm thường nghĩ nhớ về đất Định, hình ảnh đồng quê hay góc phố cứ lung linh trong tâm tưởng y. Cuối năm ấy y làm một chuyến y cẩm hồi hương. Đậu vẽ ra trong đầu bao  nhiêu là chuyện sẽ làm, sẽ đi thăm nơi này nơi kia, sẽ viếng người thân kẻ sơ, họp mặt với bạn văn bọn chữ nghĩa…

Máy bay đáp xuống phi trường, mọi người chen lấn xếp hàng rồng rắn để chờ nhân viên hải quan đóng mộc. Dòng người câm nín nhẫn nhục và cố nhã nhặn chờ đến lượt mình, khác hẳn lúc huênh hoang khoác lác khi ở đất Mơ. Chờ đến rã cẳng chân mà dòng người nhích từng tí một. Đến lượt Đậu trình hộ chiếu, tay nhân viên lầm lì mặt không có tí biểu cảm. Hắn ta cũng như những nhân viên khác, ngồi sau cái quầy được thiết kế cao và che chắn hết mọi tầm nhìn của khách. Hắn ta cầm sổ thông hành và thị thực của Đậu lật qua lật lại một lát mới hỏi cộc lốc:

 

– Tên gì?

 

Đậu bực mình nhưng vẫn cố gắng từ tốn:

 

– Đậu Nguyễn.

 

– Quê quán ở đâu?

 

– Đất Định.

 

– Về làm gì?

 

– Thăm gia đình.

 

– Bao lâu?

 

– Ba tuần.

 

– Visa này làm ở đâu?

 

– Dịch vụ bán vé máy bay bao trọn gói.

 

Đã năm phút trôi qua mà y vẫn không đóng mộc, không trả lại sổ thông hành. Hắn ngồi yên, mắt quét lia lịa dòng người đang xếp hàng để lượng định con mồi. Đậu vẫn kiên nhẫn chờ, không chờ thì cũng không biết phải làm gì, trước khi đi, bạn bè đã bỏ nhỏ với Đậu:” Kẹp năm hay mười đô vào sổ thông hành, để mọi việc suôn sẻ và nhanh chóng”. Đậu ghét cái thói vòi vĩnh, lót tay nên không kẹp tiền vào. Đậu hiểu người làng Vực lắm, dù sống ở đất Mơ, đất Định, đất cựu, đất tân… thường ngày chê bai chỉ trích này nọ, thậm chí nói  năng hùng hổ, chụp nón cối này nọ... nhưng khi về đến hải quan xứ quỡn là ngoan ngoãn như cừu non, cụp đuôi như cún con, mặt mày lấm la lấm lét, kẹp tiền vào sổ thông hành cho nó lành. Đậu không kẹp tiền, Đậu quyết chống lại cái thói vòi vĩnh này, cả Đậu và tay nhân viên hải quan như so găng xem ai bản lãnh hơn. Trong đầu Đậu chợt nảy ra ý nghĩ:” Mày không thể kéo dài mãi, mày phải trả lại giấy tờ để tao đi mà tranh thủ vòi đứa khác, bằng không đồng bọn của mầy sẽ vớt nhiều hơn”. Quả thật linh như bà phán, chừng một phút nữa mà không vòi được tiền cà phê bánh mì, hắn ta đành hậm hực đóng mộc và trả lại giấy thông hành cho Đậu.

 

Ra khỏi sân bay, lập tức Đậu cảm nhận cái nóng như táp vào mặt, dòng người và xe cộ trên đường như dòng lũ ào ào bất tận. Người nhà Đậu sau khi biết Đậu không chịu kẹp tiền nên bị hành bèn càm ràm:

 

– Sau bao nhiêu năm mà Đậu vẫn cứ là Đậu, sao không chịu kẹp tiền vào sổ thông hành như người ta? Nhỡ nó làm dữ hay kiếm cớ này nọ có phải khổ thân không? Đậu ơi là Đậu! Đậu sao mà đậu thế!

 

–– Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 10/22

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.