Hôm nay,  

Đi xem bói

20/10/202221:33:00(Xem: 4283)
Truyện ngắn

IMG_3400


Nàng là nhỏ bạn thân cùng xóm cùng lớp với tôi, rất thích đi coi bói, hễ nghe “danh” của ông bà thầy bói nào là nàng tìm đến, nhất là từ khi nàng biết yêu. Tôi là người luôn được (bị) nàng rủ đi theo dù tôi đã cố từ chối, nhưng nàng năn nỉ quá, vả lại, mỗi khi xong việc, nàng dẫn tôi đi ăn gỏi đu đủ khô bò và uống nước mía, nên tôi đành… nhận lời.

 

Lần ấy, nàng thất tình, ủ rũ như gà mắc mưa, tôi cản cỡ nào nàng cũng nhất quyết đi gặp thầy bói, để hỏi “tại sao tình tan vỡ”, và “khi nào tái hợp?!” Vòng vo quanh co trong hẻm Vạn Kiếp gần chợ Bà Chiểu, cuối cùng cũng tìm được nhà “thầy” (Có ai giải thích cho tôi, tại sao các ông bà thầy bói hay ở nhà trong hẻm, vì tôi đi với nàng nhiều lần, chưa bao giờ được đến nhà mặt tiền?)

 

Nàng bấm chuông, thầy từ từ hiện ra, lừ đừ mở cổng cho hai đứa vào, rồi hỏi:

 

– Hai cô coi hả?

 

Tôi nhanh nhẩu:

 

– Dạ không, chỉ có cô này thôi!

 

– Sao cô không coi?

 

– Vì tôi hổng… mê!

 

Nàng nhéo tôi một cái, nhìn thầy như xin lỗi! Thầy lạnh lùng chỉ vào phòng khách:

 

– Vậy cô ngồi đây chờ, còn cô này đi vào trong theo tui!

 

Trong lúc chờ đợi, thầy này… chơi đẹp, mở nhạc nho nhỏ, du dương, và bất ngờ khi đó là giọng hát Duy Quang. Tôi thích nghe Duy Quang qua một số bài bố Phạm Duy viết “đo ni đóng giày” cho con trai vì giọng anh ngọt ngào, hiền lành, thư sinh. Nhưng lần này, tôi được nghe Duy Quang hát loại nhạc khác, nhạc lính Việt Nam Cộng Hoà, hay không thể tả, mà lại cả một tape liên tục. Tôi nghe say sưa mà quên thời gian hơn nửa tiếng đã trôi qua, thầy đưa nàng ra, rồi tiễn hai đứa ra cổng.

 

Tôi bước đi mà tâm trí vẫn còn lâng lâng vì tiếng hát Duy Quang, chẳng để ý đôi mắt nàng đỏ hoe, tôi quyết định quay lại cổng. Thầy vẫn đứng đó, cười đon đả:

 

– Cô muốn coi hả, tui coi luôn cho, hôm nay tui vắng khách.

 

– Dạ không! Tôi chỉ muốn hỏi tape nhạc Duy Quang tên gì vậy thầy, hay quá trời luôn á!

 

Thầy tắt ngay “nụ cười chào hàng”, nhìn tôi như muốn quạu, cũng may nhờ có nàng đứng sụt sùi kế bên làm thầy động lòng, và quăng cho tôi câu trả lời khô như ngói:

 

– Tape Tình Anh Lính Chiến!

 

Hôm sau, tôi ra chợ trời Tạ Thu Thâu tìm thâu tape nhạc, đem về nhà, các ông anh bà chị tôi cũng nghe say mê, còn thâu đi thâu lại cho bạn bè cùng nghe.

 

Lần đầu tiên, tôi mới thấy lợi ích của việc… xem bói!

 

Còn chuyện tình của nàng ấy, sau chuyến đi đó, nàng còn đi thêm vài chỗ nữa, dĩ nhiên là cũng có mặt tôi tháp tùng chớ ai, không phải vì mấy dĩa gỏi đu đủ và ly nước mía, mà vì ai nỡ bỏ bạn bỏ bè khi nó đang đau khổ vì yêu đương? Cũng nhờ vậy mà nàng sáng mắt được chút xíu, vì ông bà thầy bói nào cũng phán như đinh đóng cột, rằng “gương vỡ sẽ lại lành”, cứ chờ đợi rồi “người ta” sẽ quay lại như Kim Trọng tái hợp Thuý Kiều, cùng nhau ca bài ca “về đây nghe em, ta nối lại tình xưa ”. Nhưng tháng ngày trôi qua, nàng vẫn âm thầm “đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng không thành”, đường tình vẫn tối như đêm ba mươi, tôi bèn mạnh miệng khuyên bảo nàng:

 

– Mày bỏ tật đi coi bói được chưa nà!? Còn chuyện tình duyên, thì thời gian sẽ chữa lành mọi vết thương lòng!

 

Người bên ngoài lúc nào cũng sáng suốt hơn kẻ trong cuộc đang u mê. Mày ngã tao nâng, tao ngã mày nâng vậy đó! Nàng cũng dần nguôi ngoai, tuy vẫn giận hờn mấy thầy bói đã từng cho nàng biết bao hy vọng, nhưng dù sao họ cũng là chỗ dựa, an ủi nàng trong nỗi bơ vơ tình ái của tuổi mới lớn.

 

Một buổi chiều kia, nàng vội vã chạy qua nhà tôi, thầm thì:

 

– Ê, xóm mình có một chỗ xem bói mà xưa này tụi mình không biết nha!

 

Tôi trố mắt ngạc nhiên:

 

– Thật vậy sao? Là ai vậy cà? Mà sao mày biết?!

 

– Thì hồi nãy có hai cô gái ghé nhà tao đổ xăng (nhà nàng làm nghề bán xăng lẻ), rồi hỏi thăm nhà chị Tý bán bánh chưng, tao hỏi có chuyện chi không, họ bảo họ từ Chợ Cầu, nghe “danh tiếng” thầy bói là chị Tý nên tìm đến.

 

– Chị Tý mập con bà Sáng bán bánh chưng ư? Bà đó mà coi bói nổi tiếng ư?

 

Nhà bà Sáng, mẹ của chị Tý làm nghề bán bánh chưng mini, cỡ nửa bàn tay. Cả ngày chị Tý đầu tắt mặt tối phụ mẹ gói bánh, luộc bánh, giao bánh cho các chợ xung quanh. Đôi khi học bài khuya, tôi cũng đến mua một cái, ăn vừa đủ no. Vì quanh năm bận bịu làm bánh nên căn nhà chị Tý rất bộn bề, và theo năm tháng cũng trở nên cũ kỹ. Chị Tý, khá đứng tuổi, dáng người thấp, đẫy đà vì suốt ngày ngồi làm và… ăn bánh, nhan sắc vốn đã tàm tạm ngày càng xuống dốc vì chưa có ai rước (đời hoa chóng già vì thiếu …mặn mà), nên mọi niềm vui nỗi buồn của chị tập trung cả vào… nồi bánh!

 

Tôi lẩm bẩm:

– Tao vẫn chưa tưởng tượng chị Tý là “thầy bói lừng danh”.

 

– Người ta từ Chợ Cầu xa xôi tìm đến thì không phải là không có lý do nhé!

 

– Thì mày cũng đã từng lôi tao đi khắp các hẻm Phú Nhuận, hẻm Chùa Nghệ Sỹ, hẻm Cô Giang Cô Bắc đấy thôi, mà có kết quả gì đâu! À mà thôi, mày đã hứa với tao là bỏ chuyện bói toán rồi thì quan tâm làm gì đến bà Tý mập?

 

– Tụi mình đến đó thử xem sao, coi như … ủng hộ hàng xóm láng giềng. Tao hứa lần cuối với mày, sau lần này nếu không đúng, tao thề sẽ vĩnh biệt bói toán, chịu hông?

 

Tôi hơi bực mình:

 

– Chuyện dĩ vãng đã qua, Kim Trọng cũng đã biến mất tăm, vậy bây giờ Thuý Kiều, í lộn, nhà ngươi đến gặp chị Tý để xem chuyện chi??

 

– Đã nói là thử thôi mà. Mày làm ơn giúp tao lần này nữa thôi, nhe?

 

Chập tối ngày hôm sau, xóm nhỏ ẩm ướt sau cơn mưa chiều lất phất, tôi và nàng đi vào ngõ chợ, vòng qua bên hông Nhà Thờ, tìm đến nhà chị Tý. Trong bóng mờ, chị Tý ngồi bên bếp lửa trước sân, canh chừng mẻ bánh cuối ngày để giao cho nhóm công nhân xí nghiệp làm ca ba. Thấy hai đứa tôi bước vào, chị Tý ngước lên mỉm cười:

 

– Mua bánh hả cưng?

 

Chúng tôi ngồi xuống bên bếp, nàng nhìn chị Tý ra vẻ “bí mật”:

 

– Dạ, em đến đây nhờ chị xem giùm một quẻ.

 

Chị Tý giật mình, làm rớt khúc củi định bỏ vào lò:

 

– Tầm bậy nà! Chị mà bói toán gì!!

 

– Thôi chị đừng... mắc cở nữa, em biết rõ lắm luôn. Hôm qua em chỉ nhà chị cho hai cô gái Chợ Cầu chớ ai!

 

Đến nước này, chị Tý đành phải im lặng, rồi chị đứng dậy, kéo hai đứa tôi ra cổng:

 

– Chỗ hàng xóm thân tình, chị nói thiêt, chị không biết bói gì hết á! Người ta tìm đến thì chị nương theo mà nói… tào lao cho người ta khuây khoả nỗi lòng, vậy thôi. Nói hên thì trúng mà nếu có trật cũng đâu ai dám bắt đền. Tóm lại, hai đứa coi như chưa nghe thấy gì nhe, còn bây giờ thì mau đi về cho chị còn luộc bánh!

 

Nói xong, chị dúi vào tay tôi hai cái bánh nóng, rồi nhanh nhẹn quay trở vào nhà, nàng bạn yêu quý của tôi không kịp tra hỏi thêm câu nào nữa.

 

 

Bước ra ngoài đường cái, tôi mừng rỡ trong bụng, hớn hở bóc bánh ăn, còn nàng đi bên cạnh tôi, im re thẫn thờ. Chẳng biết vì mải suy nghĩ câu nói của chị Tý hay đang tiếc nuối lời hứa “cuối cùng” đã hứa với tôi?!

 

Kim Loan

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.