Hôm nay,  

Về, trên những cơn mơ

29/10/202212:37:00(Xem: 3211)
Nhatthuc 012
Nhật thực -- Tranh Nguyễn Đình Thuần.



Tuy chật chội, căn nhà của ta vẫn ưu ái dành nơi trú cho những cơn mơ dăm khi ghé nghỉ; thật bồi hồi khi giữa khuya được lần mở lại những hoạt cảnh của một phần đời rũ bỏ tưởng chừng sẽ mãi bị lạnh lùng vùi dập.

Vùng sơn lâm thác núi diệu kỳ thổ nhưỡng phong nhiêu ngọt vị mận trại-hầm thơm hương hoa phù dung chùa linh-phong-sư-nữ.

Chòi rạ rối bời còn lấm trang cổ sử

những chiếc xe cắt cạnh từ tranh vẽ thiếu nhi vào ra bến đỗ cheo leo

cả sim đồi lặng lẽ ngó chào theo.

 

Thành phố vẫn mãi là của ta!

trên từng nấc dốc chưa lên đã ngừng lại thở

uốn lượn từng rặng đèo thông hát ngơi với gió

thành phố có

mimosa rây vàng mái đỏ.

 

Dãy nối dãy nhà ngói âm dương cáu rêu gầy gò như những khung tranh lụa thế kỷ trước hun hút dài đến mực suốt thời gian mùa về vẫn chưa đi được giáp vòng mức thước thủy ngân đo nhiệt độ.

Điện đường vàng ẩm người qua kẻ đến thấy ngay được chính bóng mình trong vòng ôm ấp của chiếc nôi ánh sáng ru êm đó.

Đêm, sương mưa tắm gội tận tình các khung cửa kính dầy lớp ngự hàn.  

Phố xá tinh khôi mặt mũi hồng hào thắt nơ tím cúi đầu trình diện sau tràng chổi quét dọn sạch trơn trước cả tràng hót thứ nhất chim sáo đốm tung chăn ấm rạng đông.

*

Hành trang túm tròn xinh xinh như búp bông cải mới nhổ còn lấm đất dưới truông hào, nêm nới tay cả một thời lưu lạc vào vẫn còn chỗ cho những nếp trán sẽ kẻ đều tuần tự.

Những bẹ non tẻ nhánh, những ngả đời rối rắm ngược xuôi, những vấp ngã lênh đênh và bàn-tay-em-hoa-mắt-mèo đưa nâng kịp lúc.

Kính cẩn hôn lên quả mơ sơ sinh mỏng phấn rìn rịn: điểm ươm cho một kỳ bụ bẫm chín ngon.

Sao bảy đóa trên đầu giăng chỉ nhện,

mỗi rời xa hai vú núi lâm-viên trì níu dùng dằng.

 

Trong bể mù sàn sạn muối hồn ta bơi ngược về em trên đỉnh thiên thu kia mai chiều sẽ ra ngồi hong tóc trên rìa đá cuội tựa lưng thành cầu (tự tay ta đóng cột)?

ngón đũa ngà quơ quào chải lược,

cổ thiên nga ba ngấn đọ gang trời,

gùi nắng quảy gánh làm rơi mấy giọt xuống cuốn truyện tình mở hờ trang sẽ đọc.



Lạ, năm này hè cứ oi oi sôn sốt

giàn đậu ván trúng cảm ngủ mê man cất cả mùi thơm như dầu hương nhu vào gân chùm dẹp măng óng ả li ti

gờ tường đóng tai thỏ chạy con thoi

bập bùng áo cánh gián em bần thần hong hóng gió

viền không đủ dày cho hai bờ khuy xướt cạy nhau.

 

“Ôi! trưa nồng quá!”

 

Cô bướm mệt khờ,

em tỉnh bơ,

sao ta mặt đỏ?

 

*

 

Ta thời thôi từng độ ngoan ngoãn xòe tay hứng sương đêm.

Uống trữ năng lượng cho việc nhận diện từng khúc quanh co trùi trụi nhão nhợt đợt ngày bão rớt từ lớp học về bươn lên trước mặt em giả vờ vẫn còn thật sung sức.

Rất thực là đôi khi cán đích mừng đến muốn vái lạy trần gian và tạ ơn cái kiến trúc (nào khác viện nữ tu áo chùng đen) xám ngắt với mái vòm cối xay gió (hệt như cái cơ ngơi huyền thoại trong quyển tiểu thuyết dịch vừa xem) mà căn phòng ta trọ sát trần nhà là nơi lý tưởng để họp vầy cùng nhật nguyệt.

Nhẹ nhõm thay là được nhảy nhót theo điệu tù và lông trâu ngứa nhột cạ vào môi (thinh thích) rồi chân xọ đá chân xiêu loanh quanh đánh vòng cả góc thị xã thơm ấm đỗ-hữu-trà-cà-phê nước một.

Chiêu chút khói căm căm rét và nhắp khẽ hạnh phúc từng lòng cam hạt trái xoan.

Vất nghi hoặc những ngày thời tiết nồng nàn chẳng buồn vận trang phục vào gò đống thịt da trứng bóc rưng nứt hở.

 

Rồi sẽ om tất thành trí nhớ.

 

*

 

Có những cơn mơ (trong đó) ta tranh hùng cùng tưởng tượng

bị ảo giác truy đuổi tận mép thung lũng cụm chổi gà mồng dựng đứng

ném nỗi tự ái phút quy hàng ngay xuống vực.

Những bức khắc nữ nhân linh hoạt đội lốt chim mỏ bầu dục.

Những giò lan hài đa sắc vuốt ó rậm rì rễ mẹ rễ con nạy được từ thượng nguồn thác thiêng.

Ta ngụy trang trốn chạy bằng ngoại hình con cuốn chiếu xọ xiên.

Thả xuống cọng thép gió từ đỉnh thu lôi giăng loa âm thanh rè rè trống du mục.

 

Nắng tanh tách võng đưa mềm giấc hạ

giấy học trò trót vấy thơm ngái mùi mồ hôi.

 

Rồi sẽ ủ tất vào bài thi cuối khóa!

*

Ta vẫn về trong những cơn mơ

có một lần nhớ đến em với len cuộn bồn chồn thật lạ

nước râm ran đàn cá lia thia ngủ từ lâu

cỏ gấu đan nệm lưng và én trắng quây vương miện trên đầu.

Ta nghĩ đến em mà dãy thủy liễu quanh hồ lại háo hức!

Cụ bích đào bô lão                                                                                         

vỏ thâm niên vui tí tách

khi nhạc tím lên và sấm gảy suối đờn.

 

Em ngồi đó mà ta đang thức nửa

em bây giờ mới là thật trăm hơn.

 

– Nguyễn-hòa-Trước

(08-2022)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.