Hôm nay,  

Mắt thấy tai nghe

20/11/202220:20:00(Xem: 4166)


alley-in-saigon


Khi tôi về. Thời gian nghỉ phép quá ngắn ngủi nên tranh thủ tận lực đi đây đi đó để tận mắt thấy, tận tai nghe. Tôi thu thập khá nhiều những chi tiết, thông tin, tư liệu để mà viết; những thông tin tiêu cực có, tích cực có với trực giác khá bén của mình, tôi lựa chọn những gì tốt và thật nhất, có một điều là “Sự thật mất lòng”, sự thật khó nghe, nghịch nhĩ nên cũng dễ bị phản ứng cực đoan, nhất là với dân mít nhà mình, đừng nói là quan quyền chức sắc, ngay cả dân đen con đỏ cũng thế. Người mình sống dưới sự nhồi sọ, tuyên truyền một chiều đã lâu, cộng với tính cách của người mình nó thế cho nên người mình khó chấp nhận ý kiến trái ngược, lời phản biện… cho dù đó là lời thật, lời mang tính cách xây dựng. Người mình cả quan lẫn dân chỉ thích khen, dù là đãi bôi, thích lời ngọt dối trá; hễ mà nói thật hay đụng đến sự kiện gì đó thì dễ lên đồng tập thể lắm! Người mình có cái lối tự hào rất vô lối, rất cực đoan và ấu trĩ. Tỷ như thắng một trận đá bóng là cả nước xuống đường ầm ĩ, cả dân lẫn quan đều tự sướng, khoác lác đại ngôn “ Đặt cả châu Á dưới gót giày”, “ Thành quả của sự chỉ đạo sáng suốt...” Trong khi ấy những vấn đề dân tình quốc sự mang tính sống còn thì chẳng ai nói đến, tất cả thờ ơ như thể chuyện của ai chứ chẳng liên can gì đến mình.

 

Khi tôi về, dĩ nhiên là có cả đi chùa lễ Phật. Từ Sài Gòn cho đến các tỉnh thành, chùa chiền giờ rất “Hoành tráng” (chữ người trong nước), sơn son thếp vàng rất hào nhoáng, chưng bày la liệt tượng La Hán, sư tử Tàu, pháp khí Đài Loan, đèn đá Hàn quốc...Chùa chiền giờ to lớn đồ sộ, những ngôi chùa như cung vàng điện ngọc, những pho tượng khổng lồ… Rồi chưng bày la liệt cây kiểng, bon sai. Tôi viếng chùa Nam Thiên Nhất Trụ tự, ngôi chùa do những người Bắc di cư 1954 xây dựng ở Thủ Đức. Trong sân chùa có cây thị to hai người ôm. Người ta khắc biển đồng ghi tên ông Q chủ tịch cúng dường. Tôi cảm thấy lòng mình đau không sao tả. Cây thị cả trăm năm tuổi, to lớn như thế, tự dưng bị cắt ngọn, cưa thân, bứng từ rừng đem về cúng dường. Cái này phải nói là công đứt chứ công đức gì ở đây! Nghệ thuật bonsai của người Nhật vốn tỉ mẩn, tinh tế, nhỏ nhắn… khi du nhập vào Việt Nam thì biến tướng kinh dị. Bonsai Việt giờ toàn những cây khổng lồ vài người ôm, họ lên rừng đào bới, cưa cụt, đem về làm bonsai. Ngay tại sài Gòn hay đi dọc đường quốc lộ I tôi thấy nhiều điểm bán cây cảnh chưng bày rất nhiều những bonsai khổng lồ, những cây cổ thụ hàng trăm năm hay hơn nữa bị cắt ngọn, xẻ thân, trảm gốc để cho vào chậu. Người ta săn lùng khắp núi rừng để tìm cây cổ thụ quý đem về làm bonsai. Cả dân lẫn quan đều chơi bonsai khổng lồ, những biệt phủ, dinh, village của quan lại càng sính bonsai khổng lồ, mới đây nhất người ta tung lên mạng biệt phủ ông bí thư Đồng Nai với loạt bonsai khổng lồ cả trăm tỉ đồng, ngoài bonsai khổng lồ ra các quan và đại gia còn sính chưng nhà gỗ, sập, đôn, ngai, bình phong, tượng… toàn danh mộc gỗ quý. Đây cũng là một trong những nguyên nhân rừng trọc núi lở, lũ lụt bất thần, hạn hán…

 

Những năm gần đây các vị tai to mặt lớn cứ lên ti vi tự sướng:”Thế nước đang lên”, “ Có bao giờ được như thế này chăng?”… Thật tình mà nói thế nước đang lên, lên không ngừng, càng ngày càng lên, lên không biết đâu là hạn mức cuối cùng...Thế nước đang lên nên: sài Gòn, Hà Nội, Quy Nhơn, Cần Thơ, Đà Nẵng, Đà Lạt, Sapa… đều ngập hết ráo, Riết rồi dân cũng đành “ Sống chung với ngập” như đã từng  “ Sống chung với cướp giật”, “ Sống chung với tham những”, “ Sống chung với phiền toái”… Không sống chung thì cũng phải chịu chứ giờ biết chạy đi đâu? Rừng cạo sạch, xẻ núi san đồi để quan gia bán đất, phân lô, cất biệt phủ, lập biệt trại… Còn trong thành phố thì xây dựng vô tội vạ mà không cần làm đường thoát nước, thậm chí còn lấp rạch, lấn sông để phân lô bán nền, bởi vậy Ngập là đương nhiên, không ngập mới là lạ.

 

Khi tôi về, những người bạn ngày xưa của tôi bảo:” Việt kiều giờ chơi không lại Việt cộng đâu!” Việt cộng giàu kinh khủng lắm, tiển bạc nhiều vô kể”. Điều ấy hòan toàn đúng, những đại gia, quan gia, Việt Cộng con… ăn chơi như những ông trời con, vung tay chi tiêu mát trời ông địa, tiền bạc với họ như vô hạn. Việt kiều không có cửa! Việt kiều chỉ có giá vào thập niên tám mươi và chín mươi, ngày nay mất giá lắm rồi. Những năm ấy Việt Nam đóng cửa với thế giới bên ngoài, cả nước đói kém lạc hậu, chưa có tầng lớp nhà giàu mới, bây giờ thì mọi sự đã khác! Việt kiều không đủ tiền và cũng không đủ máu mặt lẫn máu  liều để chơi như Việt Cộng con. Giờ xứ mình người có tiền ăn chơi rất bạo, được phục vụ tận giường như những ông hoàng. Hải ngoại có tiền cũng không có được những món ăn chơi như Việt Cộng con. Những quán karaoke, những tiệm mát xa vô cùng lộng lẫy và sang trọng mà hải ngoại không có,  dĩ nhiên là những thú ăn chơi, mọi nhu cầu đều được đáp ứng.

 

Nhân chuyện Việt kiều tôi lại thấy buồn cười cho hai chữ Việt kiều. Có những cái sai nhưng riết rồi thành quen. Khi người Hoa đến nước ta sinh sống ta gọi họ là Hoa kiều, tương tự vậy ta gọi là Pháp kiều, Mỹ kiều, Úc kiều… Tức là những người nước ngoài đến nước mình sinh sống. Đằng này mình đi đến nước người ta sinh sống mà lại tự mình gọi mình là kiều, thật vô lý!  Người bản địa gọi ta là kiều thì mới phải!  Ấy thế mà bao nhiêu năm nay chúng ta cứ tự gọi mình là Việt kiều! Việt kiều xưa là ôm chân đế quốc, đu càng, chạy theo bơ thừa sữa cặn… Ngày nay cũng khác rồi, Việt kiều giờ là “Khúc ruột ngàn dặm”, “ Việt kiều yêu nước” nhưng đây là Việt kiều Mỹ, Pháp, Anh, Úc, Canada… Còn như những người Việt nghèo ở Cambodia, laos… thì chẳng được vậy đâu, cũng là ruột nhưng là ruột thừa!

 

Khi tôi về, trời đất! Sài Gòn giờ toàn bảng hiệu tiếng Anh, thương hiệu ngoại quốc, ngay cả quán cà phê tí teo cũng toàn chữ đế quốc: Milk & Tea, take away, oolong tea… Sài Gòn giờ thương hiệu nước ngoài nhiều như ở nước ngoài, từ cao cấp cho đến thường thường bậc trung, thậm chí bình dân cũng đấy nhóc luôn. Cao cấp nhất vẫn là: Mỹ, Anh, Canada, Úc, Pháp, Nhật… xoàng hơn thì là Thái, Tàu. Giới trẻ sài Gòn giờ tiếp xúc với văn hóa phương tây nên phong cách sống cũng khá thoáng và cời mở khác với lớp người lớn. Phong cách thịnh hành và thời thượng nhất có lẽ đang theo phong trào Kpop của Hàn Quốc. Sài Gòn cũng như nhiều thành phố khác, giờ đại gia, nhà gàiu mới rất nhiều, hình thành nên một tầng lớp trung lưu mới, sống rất xa hoa, đua đòi và làm nhiều trò lố bịch khi mà trình độ văn hóa và thẩm mỹ không phát triển tương ưng với tiền bạc, nói cách khác là tiền bạc nhiều mà văn hóa thấp quá! Những nhà giàu mới này, có một số nhờ sản xuất kinh doanh tự thân, còn lớp cực giàu, triệu phú, tỷ phú...thì giàu là nhờ mua bán đất đai, cạp đất, biến đất công hay tài sản công thành của riêng, chẳng thấy triệu phú hay tỷ phú nào đi lên từ công nghệ hay kỹ thuật cao (high tech, Digital, chip…).

Chuyện đất đai xứ mình giờ cũng rất dễ sợ, nhà nhà tranh nhau, người người giành giật. Cha con từ nhau, mẹ con đốt nhau, xử nhau, anh em chém nhau, quan lại cướp đất dân, dân oan mất đất kêu oan quỳ lạy ở công đường, tự tử tại công đường… Giờ đụng đến đất đai rất dễ bị giết, bị tù đày. Giá đất đai cũng lùng bùng lỗ tai, toàn là tiền tỷ, chục tỷ…Đất đai của dân dù là nhà ở, mồ mả, ruộng vườn, từ đường… nhưng đều có thể mất như chơi với mỹ từ quy hoạch. Nhiều người sau quy hoạch tiền đền bù không đủ mua cục đất chọi chim.

 

Khi tôi về, chứng kiến nhiều người bạn thuở ấu thời nghèo mạt rệp nhưng giờ thành đại gia. Một trong những cách giàu mau nhất, có thể nói qua đêm đổi đời ấy là nhờ "Cổ phần hóa”. Rất nhiều công ty quốc doanh vốn là tài sản nhà nước, tài sản quốc gia nhưng sau khi cổ phần hóa thì trở thành tài sản cá nhân. Không chỉ một mình giám đốc giàu mà cả gia đình anh em của giám đốc đều giàu, dĩ nhiên là phải chia cổ phần cho những quan chức ở địa phương đó. Tôi có người bạn là một trong hai trăm người giàu nhất Việt Nam. Anh ta ngày xưa đi học không có nổi chiếc xe đạp, khi ra trường xin vào làm một công ty đá granite dần dần lên chức và sau khi cổ phần hóa công ty thì lập tức đổi đời. Tôi có thể liệt kê thêm hàng loạt vụ đổi đời sau khi cổ phần hóa nhưng thôi, đây chỉ là một bài ký nói cái cảm xúc của mình về những điều mắt thấy tai nghe và tận thân chứng kiến chứ không phải bản báo cáo.

Tôi vào viện ung bứu thăm vợ một người bạn, cảnh tượng diễn ra trước mắt thật thê thảm và kinh hoàng, lớp lớp người nằm, ngồi chờ chực khắp các hành lang, thậm chí tràn ra cả vỉa hè ngoài viện. Bệnh nhân các tỉnh thành phải đón xe lên viện lúc bốn giờ sáng để lấy số thứ tự chờ khám. Không chỉ ở viện ung bứu, hầu như các bệnh viện khác cũng đều quá tải như thế. Vợ người bạn được bác sĩ chẩn đoán ung thư vú và bác sĩ xếp lịch bốn tháng sau mới tới lượt mổ, cũng trong ngày hôm ấy bác sĩ cho biết nếu mổ dịch vụ thì nộp tiền và mổ ngay trong tuần, dĩ nhiên là mổ dịch vụ thì tốn tiền gấp nhiều lần. Bạn tôi đồng ý, thế là vợ anh ta được mổ ngay trong tuần ấy. Đồng tiền quả là có sức mạnh vạn năng, giờ xứ mình hai chữ dịch vụ rất phổ cập và hữu hiệu: khám dịch vụ, mổ dịch vụ, điều trị dịch vụ, nằm phòng dịch vụ, xếp hàng dịch vụ, giấy tờ dịch vụ,.. Dịch vụ ở đây tức là đi tắt, chen ngang, chi tiền nhiều để được xếp trên trước, dĩ nhiên là người giàu, tầng lớp giàu, người nhiều tiền mới chịu nổi dịch vụ như thế!

 

Càng đi càng thấy và nghe bao nhiêu chuyện thật chẳng biết nói sao trọn cái cảm xúc của mình, những cảm xúc lộn xộn, lung tung và rối bời. Chỉ biết là mình khó có thể tái hòa nhập, khó có thể sống được trong cái môi trường như thế này.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 11/22)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.