Hôm nay,  

World Cup, nhớ Mạ

25/11/202213:53:00(Xem: 3892)
Tùy bút

hoangquan
Mẹ Con -- Tranh Nguyễn Đức Tuấn Đạt.



Mùa Giải Bóng Đá Quốc Tế, khi những người hâm mộ bóng đá rộn ràng bàn tán về những cặp giò vàng, về những đường banh đẹp, những cú đá long trời lở đất, lòng tôi bùi ngùi, xốn xang nhớ mùa Giải Bóng Đá Quốc Tế năm 2006 được tổ chức tại Đức. Đây là lần thứ hai, sau 32 năm, nước Đức được làm chủ nhà đón tiếp 31 đội bóng từ khắp nơi trên thế giới đến tranh chức vô địch. Hãng tôi đang làm, từ xếp lớn đến nhân viên quèn, ai cũng ghiền xem bóng đá, ngoại trừ tôi. Tuy vậy, tôi vẫn tham gia những cuộc chuyện trò sôi nổi về bóng đá, cùng đồng nghiệp hòa vào không khí vui tươi, tưng bừng trong văn phòng.

 

Hai ngày trước lễ khai mạc FIFA World Cup 2006, Mạ tôi đột ngột lìa đời vì bệnh sưng phổi. Một sớm, một chiều, cuộc sống của tôi đứng sững lại. Nỗi mất mát quá lớn, tôi tưởng như không thể nào vượt qua. Tôi thấm thía bài thơ Mất Mẹ của thi sĩ Xuân Tâm Tôi biết tôi mất Mẹ/ Là mất cả bầu trời. Sau 10 ngày hoàn toàn tách biệt mọi sinh hoạt của công việc, tôi trở lại văn phòng, tiều tụy, lạc lõng giữa những xôn xao của các đồng nghiệp về diễn tiến của mùa bóng đá. Tôi vẫn bàng hoàng, chưa thể tin mình đã mồ côi Mẹ. Tôi cố gắng tập trung tinh thần vào công việc, mong vơi bớt nỗi buồn. Thế mà, có lúc đang đọc thư của khách hàng, tôi phải dừng, quay mặt vào tường, giấu đi những giọt nước mắt tràn mi. Giờ nghỉ trưa, tôi từ chối, không cùng đồng nghiệp xuống phòng ăn, ngại vẻ mặt thất thần của mình làm hỏng không khí nhộn nhịp của người khác, mà đề tài nóng bỏng là bóng đá. Một sáng nọ, tôi đang chăm chú chuẩn bị tài liệu cho tổng kết tài chánh giữa năm, cô phụ tá của ông tổng giám đốc đến bên cạnh, reo to:

 

– Chúc mừng! Congratulations!

 

Như phản xạ, tôi nói cám ơn, nhưng ngơ ngác, ngước nhìn cô, dò hỏi lý do của lời chúc. Cô vỗ nhẹ vai tôi:

 

– Em được trúng thưởng đấy. You win the prize.

 

Tôi ngạc nhiên, nghĩ thầm, đã lâu, mình đâu tham gia thi đua gì. Cô tươi tắn cắt nghĩa:

 

– Hãng mình mua bốn vé xem đá banh làm quà cho nhân viên. VIP package đấy nhé. Tất cả 200 nhân viên của văn phòng ở Đức được xổ số bí mật. Em là một trong bốn người được lô độc đắc: xem trận đấu giữa Á Căn Đình và Hòa Lan ở sân vận động Commerzbank Arena, được dự tiệc trước và sau trận đá banh. Có vé xe lửa hạng nhất đi từ München lên Frankfurt, hai đêm ở khách sạn. Và đương nhiên được nghỉ hai ngày để tận hưởng lô độc đắc...

 

Cô thư ký miên man kể. Nghĩ đến con tôi, mê đá banh từ hồi ở vườn trẻ, tôi hỏi khẽ:

 

– Em có thể tặng món quà này cho con em được chứ?

 

Cô lắc đầu:

 

– Không, quà này chỉ dành riêng cho nhân viên.

 

Tôi bối rối:

 

– Chị cho em suy nghĩ. Mai em trả lời nha.

 

Có lẽ cô thất vọng, vì thấy người trúng số mà lìu xìu, chẳng chút mừng rỡ.

 

– Ồ, nếu em bận, vé này sẽ được xổ số lại, cho một người may mắn khác. Thôi, thế này nhé, chị sẽ đi báo cho ba người kia. Độ một tiếng đồng hồ chị quay lại, em cho chị biết quyết định của em.

 

Tôi phân vân lắm. Ngay lúc này, tôi chỉ thấy buồn, thấy đau, chẳng thiết tha gì những sinh hoạt khác. Tôi gọi điện thoại cho Ba tôi. Ba bảo:

 

– Con nên đi chơi cho khuây khỏa.

 

Em gái tôi góp lời:

 

– Chị phải đi chơi. Đây là cơ hội hiếm có. Mạ phù hộ để chị được món quà đặc biệt đó. Mạ muốn chị bớt buồn.

 

Cô thư ký trao cho tôi gói quà: một ví da lớn đựng mấy loại vé, một mũ vải và một đồng hồ đeo tay với logo của FIFA World Cup 2006, cùng lời chúc:

 

– Lucky you! Have a good time.

 

Tôi máy móc nói lời cám ơn, lòng vẫn nặng trĩu u buồn. Ngồi trong xe lửa, ba người bạn đồng nghiệp tán gẫu rân ran, trầm trồ sự may mắn ngoài sức tưởng tượng. Họ lấy làm lạ vì vẻ im lìm, hờ hững của tôi. Để họ khỏi ái ngại, tôi giả lả:

 

– Tôi không rành lắm về bóng đá, nên không góp chuyện. Nhưng tôi vẫn lắng nghe các bạn bàn bạc đấy chứ. 

 

Trước khi vào trận đấu, chúng tôi được đưa vào khu tiệc tùng của các khán giả danh dự, được xem các màn trình diễn văn nghệ của các đoàn ủng hộ Á Căn Đình và Hòa Lan. Khắp nơi rộn ràng tiếng nói cười, tiếng xập xình của đàn, trống. Yên chỗ, tôi nhìn quanh, chợt chú ý đến một người Đức, khuôn mặt rất quen, ngồi bàn bên cạnh. Rất nhanh, tôi nhận ra đấy là ông Otto Waalkes, một nhân vật nổi tiếng trên màn ảnh, truyền hình và rất được ưa chuộng ở Đức. Ông là người đa tài: diễn viên hài, nhạc sĩ, họa sĩ vẽ truyện tranh, đạo diễn... Những màn diễn của ông mang lại cho khán giả những chuỗi cười thoải mái. Ông dừng câu chuyện với người bên cạnh, nhìn tôi thân thiện và hỏi tôi có muốn chụp chung với ông tấm hình không, bằng lối nói Ottifant đặc biệt của ông. Pha chút ngạc nhiên, tôi nhoẻn miệng cười:

 

– Chào ông Otto. Rất hân hạnh được chụp hình với ông. Tôi biết ông, nhưng ông...

 

Ông cắt ngang:

 

–  Không quan trọng! Chúng ta là bạn bè cả mà! Wir sind doch Freunde!

 

Ông đứng bên cạnh tôi, vui vẻ cầm tay tôi, bảo tôi nhìn vào máy chụp hình và nhắc đi, nhắc lại:

 

– Cười lên nhé. Bitte lächeln, bitte lächeln.

 

Tự lúc nào, tôi hòa mình vào không khí náo nhiệt của phòng tiệc, chuẩn bị ra sân chờ trận đấu bắt đầu. Tôi nắm tay hai người bên cạnh, đưa cao lên, lắc lư nhịp nhàng, ê a hát  olé, olé, olé, olé... . Chắc hẳn Mạ tôi đã sắp xếp sự tình cờ lý thú này, nhờ một danh hài của sân khấu Đức, gắn lại nụ cười trên môi con gái của Mạ? Vào sân vận động, chúng tôi được chỗ ngồi rất tốt. Anh bạn đồng nghiệp khèo tay tôi, chỉ sang hàng ghế cách chúng tôi không xa:

 

– Coi kìa, Maradona đó. Còn đằng kia là các thành viên trong hoàng gia Hòa Lan.

 

Suốt trận đấu, tôi đã hoàn toàn bị cuốn hút theo không khí hồi hộp, náo động, cùng những khán giả trong sân vận động hò hét, vỗ tay. Trận đấu ấy, hai đội Á Căn Đình và Hòa Lan huề nhau. Chẳng trái banh nào lọt lưới.  Tôi không nhớ có cầu thủ nào của hai đội đã vài lần đưa banh xém vào khung thành thủ môn hay chăng. Tôi chỉ biết rằng, sau chuyến đi xem đá banh tại sân vận động, một đường banh vô hình đã lắc vai tôi, giúp tôi rũ bỏ bớt đau buồn. Tôi dần dà góp mặt với những sinh hoạt thường ngày.

 

Đứng trước bàn thờ, ngước nhìn Mạ trong hình, ánh mắt Mạ trìu mến, tôi như được nghe lời Mạ dặn dò: “Con nhớ giữ gìn sức khỏe. Đừng quá đau buồn mà đổ bịnh”. Mạ như vậy đó, lúc nào cũng dang rộng vòng tay ấm áp, chu đáo chăm sóc cho gia đình.

 

Mùa Giải Bóng Đá Quốc Tế năm 2006, Mạ rời xa dương thế. Nhưng mãi mãi, trên cao, với tràn đầy yêu thương, Mạ luôn nhìn xuống, phù hộ, dẫn dắt cho bầy con được yên vui, an lành trong cuộc sống.

 

– Hoàng Quân

(Tháng 11, 2022)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.