Hôm nay,  

Tình xưa

06/12/202210:24:00(Xem: 5991)
Tạp ghi

hoang quan
Áo tím ngày xưa -- Tranh Đặng Mậu Tựu.

 

Nghe chương trình 70 Năm Tình Ca của nhà báo Hoài Nam là một trong những tiết mục giải trí giúp tôi “quẳng gánh lo đi mà vui sống”. Đi làm về, vội vàng cho xong những việc thường nhật ở nhà, tôi mở máy nghe nhà báo Hoài Nam kể chuyện. Nhà báo Hoài Nam dẫn dắt thính giả đi qua mấy chục năm tình ca Việt Nam. Hôm nay, ông kể về thời kỳ sau 1975.

 

… Thưa quý thính giả... giữa thập niên 1980, Bảo Chấn phụ trách hòa âm dĩa nhạc Sài Gòn. Giữa thập niên 1990 Bảo Chấn sáng tác các ca khúc… Cuối 1990 nhiều ca khúc được ưa chuộng...

 

Nhạc tình thời kỳ trước 1975, tôi biết hầu hết các nhạc sĩ ông Hoài Nam nhắc đến. Rất nhiều bài hát ông trích dẫn, là những ca khúc tôi say đắm của những nhạc sĩ tôi ngưỡng mộ. Nhưng tôi lơ là với dòng nhạc sáng tác ở Việt Nam sau 1975 và ít khi tìm thấy bài hát “ruột” cho mình.

 

Bảo Chấn… từ trên đỉnh cao rơi xuống vực thẳm qua vụ án đạo nhạc đầu tiên tại Việt Nam*. Tình Thôi Xót Xa ... giống tới … % bài hát I've Never Been to Me, của Charlene...

 

Nghe đến đây, tôi khựng lại. Bỗng nhiên, trong trí tôi văng vẳng nhạc điệu là la lááá la laa làà laa. Tôi vội vàng vào YouTube tìm bài hát. La la là, lá là la, la lá la là... Đây rồi! Đúng rồi! Đây là nhạc điệu của một trong những bài hát đã hớp hồn tôi trong những năm đầu ở Đức. Phút chốc, những kỷ niệm của thuở ban đầu ở Đức hơn 30 năm trước lũ lượt kéo về. Đây là căn nhà ở thành phố Duisburg, sáu chị em tôi xúm xít gần lò sưởi than, radio trong phòng khách ra rả suốt ngày. Kia là tòa nhà của trường học Đức ngữ ở tỉnh Heilbronn. Trong phòng chung bốn người, chị Thanh Tâm và tôi chia giường hai tầng. Tôi áp sát tai vào máy cassette hiệu Palladium bé tí nghe nhạc. Đó là ngôi trường trung học với ký túc xá ở làng Wolfhagen. Máy cassette nho nhỏ vẫn siêng năng ca hát cho tôi. Nhưng bấy giờ, âm thanh có thể hay hơn, vì nhờ các anh bạn cùng trường thâu nhạc từ những dàn máy hiện đại có amplifier Sony, Philips...

 

Thời chúng tôi chân ướt, chân ráo đến Đức, anh cả của chúng tôi, người bảo lãnh mấy chị em qua Đức, khuyên chúng tôi nghe radio hằng ngày để tập quen với tiếng Đức, trong lúc chờ đi học. Chúng tôi răm rắp vâng lời anh. Ngay sau đó, tôi hiểu là mục đích nghe tiếng Đức cho quen tai hãy còn xa vời, trừu tượng. Nhưng tôi mê radio, vì được nghe nhạc xen kẽ trong chương trình phát thanh. Khi xướng ngôn viên lăng lăng, líu líu tiếng Đức với tin tức, bình luận... tôi chăm chú việc nhà. Bởi, tôi nghe, chắc cũng như vịt nghe sấm. Nhưng mỗi khi có tiếng nhạc dạo, tôi bắt đầu dỏng tai. Gặp bản nhạc quen quen tôi mừng rỡ, sung sướng. Ngay cả nhạc Đức chẳng hiểu chữ nào, tôi vẫn thích. Miễn nhạc, là nghe lòng mình reo vui.

 

Anh chị em chúng tôi dường như ai cũng ghiền nghe nhạc. Việt Nam, những năm cuối của thập niên 70 cho đến khi chúng tôi qua Đức năm 1982, phải nói là chúng tôi rất thiếu thốn món ăn tinh thần. Năm thì, mười họa, mượn được máy cassette cũ của ai đó, chúng tôi túm tụm, bu quanh máy để nghe vài bản nhạc “vàng”, vài bài hát của các nước “tư bản”. Thỉnh thoảng túi rủng rỉnh chút tiền, chúng tôi đạp xe lên đường Lê Lợi, uống nước mía, để được nghe nhạc “thính phòng”. Tức là phải tai thật thính, tách những âm thanh nổi mấy chiều của xe cộ xuôi ngược, loại những tiếng động ồn ào chung quanh, để tai đón lấy những điệu nhạc, giọng ca của ABBA, Boney M. Có lẽ do tình trạng suy dinh dưỡng nhạc nhiều năm, cho nên bây giờ chúng tôi lâm vào cảnh miếng khi đói, gói khi no. Nghe bài hát nào tôi cũng cảm thấy êm tai, cũng xuýt xoa, hay kinh khủng, hay dễ sợ.

 

Chúng tôi như những đứa trẻ mê ăn quà, hau háu nhìn hũ kẹo màu sắc sặc sỡ, ước được thò tay vào hũ, nhón viên kẹo, màu xanh, màu đỏ. Nếu được nhón thêm viên màu vàng, màu tím càng vui hơn nữa. Nghe bài hát trên radio, thấy ca sĩ trình diễn trên ti-vi, chúng tôi vội ghi nhận, vội nhớ theo cách của mình. (Bởi lúc đó chúng tôi đã có chữ nghĩa đâu để hiểu lời giới thiệu.)

 

Em trai tôi ưng ý một bài hát trong radio. Em vội viết thư đến anh bạn cùng trường tôi. Anh đã ở Đức được vài năm, có nhiều kiến thức về nhạc hơn. Em nhờ anh bạn thâu vào băng cassette cho em bài hát “Bà gùm bà guề”. Anh bạn rất muốn giúp. Nhưng anh chịu thua, không biết đó là bài hát gì. Muốn ra cửa hàng để hỏi, cũng chả biết hỏi thế nào. Về sau, tôi khám phá ra, đó là bài The Lion Sleeps Tonight của ban nhạc The Token. “Bà gùm bà guề” là đoạn nhạc dạo đầu, có lẽ phỏng theo giọng gầm của sư tử.

 

Anh cả tôi kể, danh ca Elvis Presley qua đời, anh tiếc lắm, vì anh rất mê giọng Elvis Presley. Tình cờ, sau đó, mấy chị em chúng tôi xem ti-vi, thấy một chàng ca sĩ với mái tóc chải chuốt, vừa hát, vừa quay microphone, rộn ràng vui nhộn rock-n-roll, đẹp mắt hết sức. Chị em chúng tôi coi xong, bàn lui tới, cuối cùng đi đến kết luận, đó là ca sĩ Elvis Presley. Như vậy, tin ca sĩ chết, có lẽ chúng tôi nghe nhầm. Chúng tôi trịnh trọng kể cho anh bạn nghe, chúng tôi mới được coi chương trình ca sĩ Elvis Presley hát live trong ti-vi. Anh bạn ban đầu hơi ngỡ ngàng, lúc lắc đầu, làm sao có chuyện đó được. Nghe tụi tôi diễn tả một hồi, anh hiểu ra. Đó là ca sĩ Shakin’ Stevens. Ô, thôi rồi, chúng tôi trông gà hóa cuốc.

 

Chúng tôi đến Đức được 3 tháng, ti-vi truyền hình trực tiếp chương trình Giải Ca Khúc Âu Châu, Eurovision Song Contest 1982. Mấy chị em chúng tôi coi mê mẩn, trầm trồ, sân khấu tráng lệ, ca sĩ, nhạc sĩ lộng lẫy, đàn trống nhộn nhịp. Ca sĩ Nicole, cô nữ sinh trung học 17 tuổi, đại diện nước Đức, xuất hiện trong chiếc áo đầm đen chấm trắng, ôm cây đàn guitar trắng. Chúng tôi mừng lây, khi thấy thí sinh nước “mình” đoạt giải nhất cuộc thi. Anh tôi giải thích cho chúng tôi sơ sơ về nội dung bài hát.

 

Một chút hòa bình, một chút yêu thương, để tôi không bao giờ mất đi niềm hy vọng

Hãy cùng hát với tôi bài ca nhỏ, để thế giới cùng sống trong hòa bình...

 

Ein bisschen Frieden, ein bisschen Liebe, dass ich die Hoffnung nie mehr verlier

Sing mit mir ein kleines Lied, dass die Welt im Frieden lebt

 

Ngày nay, đám con trẻ của chúng tôi nghe đến bài hát này, có thể cho là xưa cũ, lỗi thời, thậm chí quê mùa. Nhưng với tôi, đó là bài hát tiếng Đức đầu tiên tôi nghe và nhớ được. Giờ đây, khi hiểm họa chiến tranh còn hiện hữu trên trái đất, ý nghĩa bài hát vẫn là ước nguyện bao người.

 

Nhiều bài hát, nghe lần đầu là tôi... tinh tú quay cuồng. Như trường hợp bài I've Never Been to Me. Tôi không rõ điều gì làm tôi thích bài hát. Từ radio, toàn cả bài, tôi nghe lõm bõm vài chữ, chỉ nghe trọn được mỗi câu I've Never Been to Me. Tôi không biết nhạc sĩ nào viết, ca sĩ nào hát. Bài hát chấm dứt, xướng ngôn viên tiếp tục nói tiếng Đức, tôi ngẩn ngẩn, ngơ ngơ, hồn vía để tận đâu đâu. Điệu nhạc lởn vởn trong trí. Sau đó, thỉnh thoảng tôi còn được nghe bài hát vài lần. Khi từ radio cũ kỹ vang lên những nốt nhạc đầu la la là, lá là la, tôi rộn ràng, háo hức, chờ đến câu I've Never Been to Me, để nghêu ngao ca theo. Những năm đầu thập niên 80, internet với tôi vẫn còn là khoa học giả tưởng. Cho nên, nghe được bài hát mình thích trên radio, giống như được món quà bất ngờ, được những giây phút hạnh phúc lắng nghe điệu nhạc làm tim mình xao xuyến.

 

Biết đâu, nhạc sĩ Bảo Chấn cũng gặp “tiếng sét ái tình” như tôi. Nhạc sĩ tình cờ nghe đâu đó bài hát, I've Never Been to Me. Ông không biết tác giả, không biết xuất xứ bài hát. Ông thích điệu nhạc, nhập tâm, điệu nhạc du dương mãi bên tai, thành quen, thành thân. Vì nhạc sĩ là... nhạc sĩ, nên một hôm đẹp trời, ông thổi vào điệu nhạc ông thích một làn hơi Việt: …Mùa xuân trên cao ngàn hoa lá lấp lánh nắng/Nụ hôn thơ ngây trao em rồi

 

Bài hát I've Never Been to Me có lẽ chỉ nổi tiếng một thời gian ngắn rồi chìm vào quên lãng. Radio dành chỗ cho những bài hát thời thượng khác. Tôi chẳng có dịp nghe lại bài hát. Tôi dần quên bài hát không biết tựa. Từ dạo ấy đến bây giờ đã hơn ba mươi năm. Bỗng chiều nay, qua câu chuyện của nhà báo Hoài Nam, tôi “gặp” lại tình xưa. Hỏi sao không bồi hồi, bâng khuâng.

 

Thời đại tân kỳ của thế kỷ 21, thật tiện dụng, cần gì, cứ gõ cửa bác thám tử Gồ. Lời nhạc chẳng cần chép viết cho mỏi tay, đầy dẫy trên liên mạng. Lúc nào cần, tải xuống, thích thì in ra. Khỏe ru. Với bác Gồ và sự hợp tác của YouTube, khán thính giả có điều kiện nghe bài hát, đọc nội dung bài hát, xem ca sĩ trình diễn, tìm hiểu hoàn cảnh ra đời bài hát... Buổi sáng, trên đường đi làm, bạn nghe radio: You raise me up so I can stand on mountains. Chiều tối, bạn cần vài phút lục lạo trên internet, You raise me up to walk on stormy seas. Thế là bạn có thể nghe nhóm Westlife and Secret Garden, nhóm Celtic Woman, 12 Tenors hoặc cô ca sĩ của nước Đức Helene Fischer ca. Sau cùng, có lẽ Josh Groban mới thật sự cho bạn cảm tưởng You raise me up to more than I can be.

 

Tôi có thể nghe liên tục suốt một tiếng đồng hồ chỉ một bài hát. Tôi yêu bài If của David Gates, bởi yêu tiếng đàn đệm guitar, bởi mấy chữ if của bài hát đẹp lạ lùng. If a picture paints a thousand words / Then why can't I paint you?

 

Tôi đã nhiều lần tương tư bài hát, cả nhạc Việt lẫn nhạc ngoại quốc. Nhưng những “mối tình một chiều” của tôi thường có lý do, vì lời bài hát hay, vì hợp với tâm tình của tôi, vì ca sĩ đó tôi rất mến mộ... Nhưng bài I've Never Been To Me là một tình yêu không điều kiện, như tâm sự của nhạc sĩ Diệu Hương, yêu em vì chỉ biết đó là em. Vậy thôi.

 

Chỉ trong mấy chục phút, tôi chạy xe ngang dọc, xuôi nam, lên bắc nước Đức, trở về ngày cũ của hơn ba thập niên trước. Mơ màng hồi tưởng những kỷ niệm êm đềm, đôi lúc vụng về nhưng dễ thương. Tôi đã nguôi ngoai nỗi bực dọc ngày nay trên hãng, khi đụng độ nặng nề với bà xếp lựu đạn. Tôi quên khuấy phiền toái buổi chiều khi tan sở, chạy không kịp thở tìm phương tiện về nhà, vì tuyến đường xe lửa của mình bị trục trặc. 

 

Ông T. Vấn có viết “... tất cả những người yêu thích chương trình 70 năm Tình ca Việt Nam đều nợ ông Hoài Nam một lời cám ơn viết bằng chữ hoa.” Tôi được thưởng thức chương trình 70 nhạc tình của ông Hoài Nam. Ngoài ra, trong chương trình về nhạc sĩ Bảo Chấn, ông Hoài Nam còn tặng cho tôi tấm vé đi ngược thời gian, đôi phút trở về dĩ vãng của những ngày tháng thuở tôi tuổi đôi mươi. Để tôi gặp lại tình xưa, một mối tình nhẹ hơn sương khói cho một bài hát không biết tên.

 

Tôi xin gởi đến ông Hoài Nam lời cám ơn bằng chữ hoa, thật thân ái và rất trân trọng.

 

– Hoàng Quân

 

* Mới đây, tôi nghe rằng, ngày xưa nhạc sĩ Bảo Chấn bị oan trong “nghi án đạo nhạc” và có nhiều “uẩn khúc” đằng sau những lời phê bình, chỉ trích. Tôi có ý tìm thêm thông tin trong internet. Nhưng không tìm thấy. Hy vọng sẽ có người minh oan cho nhạc sĩ.

 

Bài đọc của nhà báo Hoài Nam

70 Năm Tình Ca (91) – Thời kỳ sau 1975 – Bảo Chấn, Bảo Phúc

 

http://t-van.net/?p=3543

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.