Hôm nay,  

Dọn nhà, dọn lòng

14/12/202209:31:00(Xem: 3914)
Truyện

hoangquan

Vào Thu –  Tranh Hoàng Thanh Tâm.

 

Chị rời Việt Nam khi tuổi vừa ngoài đôi mươi. Trong chuyến dọn nhà vượt đại dương gần mười ngàn cây số, hành trang của gia đình chị lỏng chỏng mấy cuốn Album, một số sách vở, vài món quà mỹ nghệ, dăm ba chiếc áo dài, hai cây đàn guitar chung của mấy chị em và cây đàn tranh của chị. Sau mười ngày ở trại chuyển tiếp, gia đình chị dọn về nhà riêng. Mấy tháng sau, chị xuôi Nam theo khóa học Đức ngữ, ở một thành phố nhỏ có con sông hiền hòa chảy ngang. Hết khóa Đức ngữ, chị ngược lên miền Bắc, ở ký túc xá, làm học trò trung học. Rồi chị về miền Trung, vui vầy đèn sách đại học Frankfurt. Cứ vậy, chị tung hoành, ngang dọc khắp nước Đức. Hơn ba mươi năm ở nơi gọi là quê hương thứ hai này, số lần dọn nhà của chị đã lên đến gần chục rưỡi. Tính chị ưa đầu cơ tích trữ những mặt hàng mua không ai bán, mà cho chẳng ai lấy. Mỗi trạm dừng, chị gom đây một chút, nhặt kia một tí. Cho nên, kiến tha lâu, đầy tràn tổ. Bởi thế, mỗi lần chị dọn nhà là lỉnh cà, lỉnh kỉnh, túi này, thùng nọ. “Kho báu” của chị ngồn ngộn những sách vở, báo chí. Những hộp xếp đầy thư từ, thiệp tết, thiệp sinh nhật, bưu thiếp du lịch, các tập thơ, tập nhạc chép tay. Những sản phẩm thủ công chị tỉ mỉ làm lấy hoặc quà của người khác. Món nào chị cũng thương, cũng nâng niu. Bên giường ngủ, chị trưng chiếc giỏ tre, trong đó quây quần mấy con thú nhồi bông be bé. Con Monchichi mặt mày láu lỉnh, chị mua con khỉ bé tẹo ở chợ trời lúc mới qua Đức. Con chuột màu vàng, chị làm quà cho chồng đã lâu. Chị quý nhất con hải cẩu len màu đen và con voi nỉ màu xám, những “tác phẩm nghệ thuật” của đứa con, khi thằng bé ở tiểu học. Lâu lâu, chồng chị khuân “sở thú” ra ban– công, lấy chổi lông gà đập nhè nhẹ. Nhìn lớp bụi mỏng bay vòng vòng, anh nói bâng quơ:

 

– Mấy thứ bụi này mới gây bịnh dữ a. Toàn là Bakterien, vi trùng trỏng không hà.

 

Chị vội vàng binh vực “sở thú”:

 

– Chút xíu bụi đâu sao anh! Cơ thể mình phải tập quen chút bụi bẩn. Chớ lúc nào cũng sạch bóng, hệ thống “phòng thủ” của mình sẽ yếu dần đi.

 

Năm cuối tiểu học, đứa con tập cưa gỗ, làm con chim đại bàng. Có hai sợi dây cột vào cánh, giựt sợi dây, hai cánh chim phe phẩy như thể chim đang bay. Thằng bé hớn hở tặng Ba Mẹ món quà nó rất ưng ý. Hai vợ chồng trầm trồ, con mình khéo tay quá chừng. Chị treo con chim bên cửa sổ của phòng con. Bạn bè đến chơi, chị hãnh diện khoe tác phẩm của quý tử. Khi đứa con vào đại học, sống xa nhà, vợ chồng chị dùng phòng con như phòng làm việc, để hẳn hai cái computer trong phòng. Nhưng chị không thay đổi trang trí. Con đại bàng vẫn bên cạnh cửa sổ. Lần nọ, trở về sau chuyến đi làm xa, chị vào phòng làm việc, thấy cửa sổ văng vắng, thiêu thiếu cái gì. Giây sau, chị hiểu ra, con chim gỗ đã “bay” đi chỗ khác. Chị hốt hoảng, hỏi chồng. Anh thản nhiên:

 

– Bụi bặm năm bảy lớp, thấy ghê quá. Anh lau sạch sẽ, cất dưới nhà kho rồi.

 

Chị không dám xuống nhà kho tìm. Sợ tìm không ra, mình sẽ buồn, sẽ cằn nhằn. Rồi không khí sẽ nặng nề. Chị nghĩ, tốt hơn, cứ hy vọng, con chim gỗ vẫn đâu đó trong những thùng, những tủ dưới hầm.

 

*

 

Chị biết “chân tài” của mình, ca không hay, đàn nghe cũng dở. Thế mà, chị lại rất mê nhạc cụ. Chị sắm nhiều loại nhạc cụ, mặc dầu chị chỉ biết chơi mỗi tây ban cầm. Số chị được bay nhảy nhiều nơi. Đi làm ở đâu, nhất là các nước châu Á, châu Phi, có giờ rảnh, chị nhờ đồng nghiệp sở tại dắt đi dạo lòng vòng thành phố, tìm những món quà lưu niệm, thường là các nhạc cụ: ống sáo tre gỗ, trống, lục lạc, đàn bầu... Nhiều lần, anh đùa: “Nếu em cứ đà thu gom quà lưu niệm sau mỗi chuyến công tác, có lúc em phải quyết định, hoặc là em, hoặc là quà phải ở ngoài cửa, vì nhà đã hết chỗ.”

 

Đi làm ở Việt Nam, chị thấy đàn T'rưng, loại nhạc cụ gõ phổ biến của người dân tộc ở vùng Tây Nguyên. Chị định mua, nhưng loay hoay nhiều việc, quên khuấy. Một người bạn đồng nghiệp nghỉ phép, du lịch đến Việt Nam. Hỏi chị thích quà gì từ quê nhà không. Chị tình thật, bảo thích đàn T'rưng. Chị nghĩ đến cái đàn nhỏ cho trẻ con để trang trí trên bàn. Chị dò tìm trong internet, chỉ cho người bạn hình của đàn. Người bạn dành cho chị ngạc nhiên lớn. Anh ta đem giao món quà, không phải là hộp nho nhỏ bằng tập vở mà là một thùng giấy bìa to tướng. Chị băn khoăn, e là anh ta không hiểu ý, mua nhầm món khác. Khi mở quà, mới hay, đấy là đàn T'rưng thật, cao cả mét. Chị khệ nệ ôm gói quà về nhà, ríu rít kể chuyện. Thấy chị hí hửng, anh vui lây. Hai vợ chồng tíu tít xem tờ chỉ dẫn, phụ nhau ráp đàn. Nhìn quanh nhà cân nhắc, chỉ còn một góc trong phòng làm việc là “đắc địa”. Đúng ra, theo truyền thống, đàn chỉ được chơi trên nương rẫy, kiêng cữ đánh trong nhà. Ôi, nhưng đó là chuyện hồi xửa, hồi xưa. Lâu lâu chị dừng trước đàn, dùng hai cây dùi tre gõ tong tong Kìa con bướm vàng, xòe đôi cánh hoặc Trông kìa con voi, nó đứng rung rinh... Chị vui, vui quá thể. Nhà chị thuộc loại be bé, xinh xinh. Cho nên, cây đàn có vẻ bị dồn ép, khép nép nơi góc phòng. Chị nghĩ, nếu đàn hiểu, chị sẽ nói thế này: “Nhà ta chật, nhưng lòng ta rộng. Đàn đừng hờn trách ta nhé.” Đôi lúc, đi ngang vướng phải đàn, anh bực bội: “Đồ đạc tùm lum, tà la.”

 

*

 

Về nhà, sau một tuần đi công tác, lòng chị rộn lên niềm vui. Ư ử câu hát chợt đến trong đầu... Another airplane/ another sunny place/ I'm lucky I know but I wanna go home chị quên đi nỗi nhọc mệt của chuyến bay dài hơn 10 tiếng đồng hồ. Chị kéo va– li vào phòng. Ủa, hình như phòng rộng ra thì phải. Ô, cây đàn T'rưng! Góc phòng trống trơn. Chị muốn chạy đến trước mặt anh, gào thật to: “Tại sao? Tại sao?” Nhưng tiếng nói thầm, đầy thất vọng vang lên trong trí chị: “Chẳng ích gì! Cây đàn giờ đã nằm rúm ró đâu đó trong thùng rác rồi.” Chị ngồi phịch xuống ghế, nhìn chằm chằm vào góc phòng. Cơn buồn giận kéo đến, người chị rũ ra. Không lẽ chị tìm gặp xếp, cho biết, mình không muốn đi làm xa nhà, vì sợ, trong thời gian vắng mặt, chồng vứt bỏ đồ đạc của mình.

 

*

 

Số của chị “đỏ bạc” lắm. Chị tự nguyện xin đổi việc, chứ chủ hãng có năn nỉ, cầu cạnh chị đầu quân vào hãng của họ đâu. Thế mà, trước khi vợ chồng chị dọn nhà xuyên tiểu bang từ München đi Berlin, phòng nhân sự gởi cho chị lá thư ngăn ngắn, báo tin, cho mấy ngàn EUR, gọi là phụ giúp trang trải chi phí dọn nhà. Anh bàn: “Đồ đạc mình ít, anh tự dọn, tiết kiệm được nhiều. Dư tiền ra, để lo việc khác. Bàn, ghế, tủ, máy giặt, nhà bếp, tất tất đều để lại cho người ta. Mình chỉ cần xe vận tải nhỏ, là được.”

 

Mấy chục năm trước, khi chị rời Việt Nam, đám bạn nghèo của chị, vay mượn làng trên, xóm dưới, đủ tiền tương đương với hai chỉ vàng, mua tặng chị cây đàn tranh, gởi gắm chút tình Việt, mong ấm lòng chị ở trời Âu. Chị không biết chơi đàn tranh và ý định tập đàn tranh hãy còn mơ hồ lắm. Nhưng ở đâu, bất kể nhà mướn hay nhà mua, chị trân trọng treo đàn tranh bên cạnh những nhạc cụ khác. Mỗi lần vô nhà mới, chị quan sát mấy vách tường, lựa chỗ đất lành cho... đàn đậu. Chị ơi ới, anh vui vẻ sẵn sàng búa đinh. Anh đùa, anh làm thiên lôi, sai đâu, đóng đó.

 

Chị đóng gói dọn nhà ra dáng chuyên nghiệp lắm. Chị lập bảng excel, ghi nội dung các thùng đồ đạc, đánh số rõ ràng. Đàn guitar chị đã cõng theo, khi đi xe lửa lên Berlin. Đàn tranh, chị bỏ vào thùng, dùng khăn chận các góc cho êm đàn, ghi số 1. Mấy chục thùng đồ chị ghi số, và dán tờ danh sách nội dung mỗi thùng. Rất tiện. Anh chỉ cần lo giải quyết kho hàng của anh. Anh gật gù. Vậy là tạm ổn. Bạn của anh sẽ phụ dọn nhà. Thời đại tân kỳ, anh quay phim diễn tiến công việc, quay hình chiếc xe anh mướn, đống đồ đạc đã được xếp gọn gàng trong xe. Chị yên tâm. Khi đồ đạc dọn vào nhà mới, chị thấy thiếu thùng số 1. Anh giảng giải:

 

– Còn dư vài món đồ, anh sợ nhét chật quá, đàn bị hư, bể. Anh gởi tạm nhà anh Khiêm.

 

Chị cảm kích:

 

– Anh Khiêm thiệt tốt bụng. Anh đã bỏ thì giờ phụ dọn nhà, lại còn chịu chứa giúp đồ đạc. Mai mốt thong thả, mình xuống München thăm anh ấy, rồi rước cây đàn về.

 

Chiều cuối tuần, chị gọi điện thoại hỏi thăm anh Khiêm, cám ơn anh giúp dọn nhà và cho gởi đồ đạc. Anh Khiêm vui vẻ:

 

– Sẵn dịp giúp anh chị dọn nhà, tui đi Berlin chơi một chuyến cho biết. Một công, hai chuyện luôn. Chị đừng ngại.

 

– Dạ, anh còn chịu khó giữ giùm đàn tranh.

 

Anh Khiêm ngạc nhiên:

 

– Đàn tranh gì chị? Hôm chất đồ đạc, xe hết chỗ. Anh Tư đưa tui cặp loa, nói, tui thích thì xài. Mà tui đâu có máy hát, nên không cần. Bữa nào anh chị về đây chơi, anh lấy lại dùng, chứ tui để không ở đây, cũng uổng.

 

Chị chưng hửng, chuyển đề tài, hỏi vu vơ vài câu về công ăn, việc làm của anh Khiêm. Mong có dịp ghé München thăm anh. Gác điện thoại, chị quay qua anh:

 

– Anh Khiêm không biết gì về đàn tranh cả anh à.

Mặt anh thoáng chút bối rối, rồi anh xẵng giọng:

 

– Đó là chuyện của mình. Tại sao lại kéo anh Khiêm vào đây!

 

Chị không giấu nỗi ngạc nhiên:

 

– Ủa, sao bữa trước anh nói là gởi đàn tranh nơi nhà anh Khiêm?

 

Anh như mất kiên nhẫn:

 

– Anh Khiêm đã trả lời không có, là không có. Sao em cứ thắc mắc hoài vậy? Chấm dứt Thema này được chưa?

 

Anh đùng đùng ra khỏi phòng. Chị ngồi lặng một hồi. Đàn tranh không thể bốc hơi biến mất. Nhưng nếu chị đem đề tài này ra “thảo luận” với anh lần nữa, chắc chắn lửa giận của anh sẽ bốc lên ngùn ngụt. Bạn bè chị bây giờ rất khá giả. Nếu chị ngỏ ý, các bạn dư sức mua vài cây đàn tranh tặng chị. Nhưng thôi, chị nên giữ cây đàn tranh trong trí nhớ. Như vậy an toàn hơn. 

 

*

 

Tốt nghiệp đại học, chị nhận việc làm mãi tận cực nam của nước Đức. Gia đình chị “dắt díu” hơn 500 cây số tìm đất sống. Chị xuống đi làm trước, chuẩn bị nơi ăn chốn ở cho vợ chồng con. Vì đang giữa niên học, anh ở lại chờ đứa con xong lớp Một. Chị đáp xe lửa, đi đi, về về mỗi tuần. Sáu tháng sau, gia đình chị mới thực sự dọn hẳn đến München. Chủ hãng của chị, một ngân hàng có hạng của nước Đức, rất phóng khoáng, hào hiệp với nhân viên. Ngân hàng bảo chị kêu thợ chuyên nghiệp đến dọn nhà, hãng thanh toán toàn bộ chi phí. Hai vợ chồng chị là hàn nho bao nhiêu năm. Đồ đạc chẳng có gì ngoài giàn máy hát cassette, cái ti– vi của anh, những thùng tranh ảnh, đồ đạc trang trí, những thùng sách của chị, những thùng đồ chơi của đứa con, và một số va– li áo quần. Bàn ghế giường tủ lọc cọc, cũ kỹ. Cho, chả ai thèm rớ. Sẵn dịp dọn nhà, vứt luôn. Mặc dầu vậy, hãng dọn nhà “đánh hơi” mối sộp. Họ phái chiếc xe vận tải to tướng và bốn ông vai u, thịt bắp đến. Tưởng là dọn đồ đạc của vi– la, ai ngờ, chỉ gọn gàng mấy cái va– li và thùng giấy. Cuối tuần về thăm nhà, chị tự tay đóng gói các đồ đạc quý giá hay đúng hơn vô giá đối với chị. Thùng đựng các sản phẩm mỹ nghệ, chị ghi tiếng Đức thật to “ZERBRECHLICH!”, DỄ VỠ để thợ khuân vác nhẹ tay. Chị dán nhãn “QUAN TRỌNG” lên các thùng đựng hình ảnh, kẹp bìa giấy tờ hồ sơ, những cuốn “nhật ký đời tôi”, thư từ của hai vợ chồng. Chị bàn với anh, những thùng này, anh xem như “vật bất ly thân”, sẽ cho đi theo xe nhà. Anh trấn an chị, đây là công việc đầu tiên trong cuộc đời đi làm, chị nên toàn tâm, toàn trí “xây đắp sự nghiệp”. Chuyện dọn nhà để anh lo liệu. Lúc ấy, giữa tuần, chị ở München. Bởi thế, chuyện hướng dẫn thợ chất đồ đạc lên xe, chị giao khoán cho chồng sắp xếp.

 

Mấy năm trời, từ lúc anh chị quen nhau, người đàng đông, người đàng tây. Anh ở với mẹ, chị ở nội trú đi học, cách nhau mấy trăm cây số. Đám cưới xong, chị trở về trường theo lớp 12, 13 cho xong trung học Đức. Những năm thập niên 80, gọi điện thoại rất đắt tiền, chỉ gọi, khi cần thiết, nói năng gọn lẹ như điện tín. Vài ba tuần, anh thu xếp thăm chị ở trường. Ngày nào chị cũng hí hoáy viết thư cho chồng. Chị túc tắc đi bộ ra bưu điện, gởi những lá thư nặng ký, những trang giấy kín mít chữ với chữ. Chị nhờ người sang cuốn cassetteNhững nhạc phẩm đoạt Giải Ca Khúc Âu Châu, Eurovision Song Contest trong thập niên 70”. Chị lộng tấm hình hai vợ chồng vào hộp cassette, nắn nót viết “thiếp xa chàng hái dâu quên giỏ, chàng xa thiếp cắt cỏ quên liềm” như tựa đề của cuốn băng nhạc. Chị muốn mượn đôi câu trong bài hát, thủ thỉ với anh:“... Wishing– wells/ Wedding bells/ Early morning dew/ All kinds of everything remind me of you”. Chị ước chi có anh bên cạnh, chị sẽ thầm thì đủ để hai đứa nghe... Summertime/ Wintertime/ Spring and autumn too/Seasons will never change/ The way that I love you. Thỉnh thoảng anh viết đôi dòng gởi chị. Anh viết chữ đẹp, nét chữ đều đặn. Nhìn phong bì với nét chữ của anh viết tên mình, chị rộn ràng, sung sướng. Anh không chép thơ, không trích nhạc. Anh bắt đầu thư bằng “Em yêu”, vắn tắt tường thuật những sinh hoạt quanh anh. Vậy đó, cũng đủ cho chị ra ngẩn, vào ngơ. Chị đọc đi, đọc lại lá thư, mỗi sáng trước khi đi học. Chị kẹp lá thư vào tập vở, giờ ra chơi đọc thêm lần nữa, trước khi chạy ào ra sân kháo chuyện với bạn bè. Tối ngủ, chị không chỉ có vài cuốn sách gối đầu giường, mà lá thư của anh cũng vừa tầm tay để chị đọc, trước khi tắt đèn ngủ. Khỏi phải độc thoại, chị mừng lắm, chứ đâu dám mơ ước anh sẽ viết nhiều thư.

 

Chị rời nhà trường, về nhà chồng, chấm dứt thời gian Quân tại Tương Giang đầu/ Thiếp tại Tương Giang vĩ. Anh chất đầy mấy hộc tủ những xấp thư của chị gởi anh. Chị gom tất cả thư của anh, của chị, xếp ngay ngắn vào một thùng giấy. Lâu lâu, chị bê thùng thư để trên bàn học, nhẹ nhàng, chăm chút mở những tờ thư cũ say mê đọc. Ôi chao! Biết bao là thương yêu, nhung nhớ.

 

Toàn bộ tài sản của gia đình chị được chất ngay ngắn, khiêm tốn trong phòng khách nhà mới. Vợ chồng con cùng nhau xếp đặt tổ ấm. Anh loay hoay bắt ti– vi và máy hát. Đứa con lăng xăng bày biện những con khủng long lên kệ. Phần chị, sau khi xếp áo quần vào tủ, đồ đạc nhà bếp yên vị đâu vào đó, chị bắt tay săm soi “tư trang” của mình, những thùng đồ đạc được “đặc quyền” đi theo chồng con trong xe nhà. Dọn dẹp tạm xong, chưa thấy thùng thư của hai vợ chồng. Chị nói với anh, để chị xuống xe đem lên. Anh bảo:

 

– Dưới xe không còn gì nữa. Anh đã khuân tất cả lên đây rồi.

 

Chị kỹ càng xem xét lại những thùng đồ đạc. Vẫn không tìm thấy. Chị quýnh quáng, gọi anh cùng lục tung các thùng, tìm lần nữa. Vẫn không có. Nước mắt chị bắt đầu rưng rưng:

 

– Anh coi có còn sót đâu dưới xe mình không?

 

Anh nóng nảy:

 

– Đã nói là không mà. Em muốn, thì cứ coi trong xe lần nữa đi.

 

Chị chạy vội xuống xe, hy vọng anh nhét thùng thư dưới ghế. Chị xem từng ngõ ngách của xe. Không còn gì cả. Như vậy thùng thư ở đâu? Trong đầu chị lùng bùng nhiều giả thuyết. Anh đã chở về nhà mới, lấy ra khỏi xe, nhưng quên mang vào nhà? Hàng xóm ngỡ rác, bỏ vào thùng chăng. Với chút hy vọng mong manh, chị vào khu chứa các container giấy cũ. Không thấy. Hay là anh để sót lại ở nhà cũ? Chị trở vào nhà. Anh vẫn đang bận rộn với máy móc. Chị cố giữ giọng tự nhiên:

 

– Anh à, em gọi ông chủ nhà cũ nhe. Nhờ ông coi giùm có sót thùng giấy đựng thư không.

 

Anh gạt phắt:

 

– Đừng gọi! Mất công. Trước khi giao trả chìa khóa cho ông, anh và ông đã đi khắp các phòng để ông kiểm soát. Nếu sót gì, hai người sẽ thấy chứ!

 

Chị nghèn nghẹn:

 

– Như vậy thì thùng thư mất đi đâu?

 

Anh chăm chú vào mớ dây điện, nói cho xong:

 

– Để ít bữa rảnh, anh tìm cho. Bây giờ mình còn bao nhiêu chuyện quan trọng phải làm.

 

Anh chẳng trông thấy chị nước mắt giọt ngắn, giọt dài, lặng lẽ ra khỏi phòng. “Ít bữa” anh nói đó chẳng bao giờ đến. Khối thư tình của đôi ta biệt tăm. Chị buồn ảo não, chị tiếc thẫn thờ. Tưởng tượng những tờ thư xanh, thư hồng, chạy thẳng vào máy nghiền để làm giấy tái sinh, chị thương, chị xót quá đỗi. Chị tỉ tê với nhỏ bạn thân:

 

– Mày coi đó, kho thư tình đó là chứng cớ hùng hồn rằng đã có một thời tao yêu anh ấy. Chứ không, nhiều khi tao có cảm tưởng... đi bên cạnh cuộc đời.

 

Nhỏ bạn bỗng dưng ra vẻ người lớn, dịu giọng khuyên nhủ:

 

– Thôi mày ơi. Đừng nói vậy, mà tan nát lòng nhau. Lúc dọn nhà, lu bu lắm mày à. Ổng không cố ý đâu.

 

Nhỏ bạn thở dài đánh sượt:

 

– Ui, phải chi ổng làm mất cái túi xách Gucci, Chanel gì đó. Ổng chỉ việc cong đuôi đi cày kiếm tiền đền.

 

Chị cắt ngang:

 

– Ơ cái con này. Đời tao có bao giờ sắm bao bì cục– chì, cục– sắt, hay sà– neo sà– niếc gì đâu.

 

Nhỏ bạn vội vàng:

 

– Tao biết, tao biết. Vì vậy mà khổ cho ổng. Mày quý những điều hổng ai thèm. Ngặt một nỗi, mấy thứ đó mua không được!

 

*

 

Năm, bảy năm nữa, chị sẽ về hưu, về vườn đuổi gà cho... mình. Công việc của chị bây giờ lui vào “hậu phương”. Không còn những chuyến đi làm khắp năm châu, bốn bể nữa. Sau nhiều năm tha phương cầu thực, chị dọn về một tỉnh nhỏ yên bình miền trung Đức. Nhà ở quê, chỗ chèn mênh mông. Chị tha hồ bày biện. Chị dành hẳn một phòng lớn trên lầu để trưng dọn gia sản của mình, vừa rộng rãi, vừa khỏi phiền hà chồng. Sách vở ngay hàng thẳng lối mấy kệ gỗ. Bầy thú xúm xít nhau trên các bệ cửa sổ. Đám nhạc cụ thoải mái chiếm góc phòng. Nhìn những món quà thủ công, chị nhớ con chim gỗ. Ngắm những nhạc cụ, chị tiếc cây đàn tranh, đàn T'rưng. Có khi giữa ngày, có lúc nửa đêm, chị thương rưng rức những tờ thư đã mất. Những lá thư ấy, nếu còn đây, hẳn sẽ là trời xanh, mây hồng hâm ấm lại tình cảm của vợ chồng chị.

 

*

 

Chị gặp cô bạn hàng xóm đang lui cui khuân đồ đạc. Cô trỏ mấy bức tranh trong thùng xe:

 

– Dì tôi tặng tôi đó. Dì dọn vào nhà cho người cao niên Seniorenresidenz. Nhiều đồ đạc dì gắn bó lắm, mà đâu có đem theo hết được. Dì còn muốn tặng tôi cây đàn dương cầm. Tôi đành chịu. Nhà tôi chật chội quá rồi. Thật ra, nếu dì bán rẻ, có người mua ngay. Nhưng dì thương đàn quá. Dì hy vọng, cho tôi, dì còn cơ hội được thấy đàn.

 

Cô chép miệng:

 

– Tội nghiệp dì. Dì nhờ tôi giúp giải quyết toàn bộ đồ đạc trong nhà dì. Nhiều việc lắm, chứ không đơn giản đâu. Tôi lo chuyện này cho dì, cũng là dịp tôi chuẩn bị cho mình mai kia. Nicht wahr? Phải vậy không?

 

Chị gật đầu:

 

– Chính xác. Tôi hoàn toàn đồng ý.

 

Chị biết, không phải chị nói vuốt đuôi, cho qua chuyện với cô bạn hàng xóm. Mà đấy là câu trả lời thực lòng của chị. Chị tưởng tượng tình cảnh của mình hai mươi năm tới. Giải quyết mớ tài sản lằng nhằng của chị quả là thiên nan, vạn nan chứ chẳng chơi.

 

Ô, phải rồi. Những lần dọn nhà, vô tình, chồng chị đã giúp chị từng bước, buông bỏ những đồ vật mình yêu thích. Mai kia, khi dọn vào nhà cao niên, chị đỡ phải bận tâm. Dọn nhà, dọn lòng gọn ghẽ, coi vậy, mà được việc quá chừng!

 

– Hoàng Quân

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.