Hôm nay,  

Mỗi ngày một mới

20/12/202218:58:00(Xem: 3034)
Tản mạn

altar

 

Nhật tân – Nhật nhật tân – Hựu nhật tân (Trích sách ĐẠI HỌC)

1. Tiễn Phạm Mạnh Tiến

Sống an nhiên, chẳng đợi cũng chẳng cầu:
Ta với người sớm muộn kh
ác gì nhau.
Đi trước hay về sau th
ì cũng vậy,
thế gian n
ày có dừng bước lại đâu!

D
ù nhân gian cứ biến thái sắc mầu
người đi trước, ta vẫn buồn rười rượi
v
ì sinh ly tử biệt – tình vời vợi
cứ đọng lại niềm đau ray rứt mãi...

Hãy để tiếc thương tha hồ từng trải
đến v
ô cùng vô tận kiếp con người
Phận người như phận con tằm ấy
vương tơ cạn sức sống – chưa th
ôi!

(July 05, 2022)

2. Gởi lời thăm hỏi

 

Tám tám tuổi đời trôi như mây
V
ẫn ta luân lạc ở phương này
B
ạn bè, tri kỷ nay vắng ngắt
ợu rót một mình một mình say!

(Trần Thiện Hiệp)

 

Được đọc bài thơ mới của bạn, tôi bật ra vài ý để chia sẻ với bạn ta:

 

Tôi nay cũng đến tám mươi rồi bạn ơi
lu
ân lạc lâu nay, đây đã là nhà rồi
th
ân hữu mấy năm nay cũng vơi gần hết
Tri kỷ b
ây giờ chỉ còn... nhớ khôn nguôi.

3. Ngẫu hứng

Vào sáng thứ năm 15 tháng 12 năm 2022, tôi nhận được qua email bài dưới đây:

 

Tứ Đổ Tường

"Tứ Đổ Tường" là câu nói vắn tắt của "Tửu sắc tài khí tứ đổ tường". Câu này bắt nguồn từ một giai thoại văn chương giữa Tô Đông Pha, đại văn hào đời Tống, và thiền sư Phật Ấn, trụ trì chùa Đại Tướng Quốc.


Một hôm Tô Đông Pha đến thăm thiền sư Phật Ấn, ông thấy trên tường có bài thơ:


酒色財氣四堵牆,
人人都在裏面藏.
誰能跳出圈外頭,
不活百歲壽也長.

Tửu sắc tài khí tứ đổ tường,
Nh
ân nhân đô tại lý diện tàng.
Thùy năng khiêu xu
ất khuyên ngoại đầu,
Bất hoạt b
ách tuế thọ dã trường.

Dịch nghĩa:

Rượu, sắc dục, bài bạc, nghiện ngập (là) bốn bức tường vây kín
Ngư
ời người (đều) bị giam giữ ở bên trong
Ai (là) ngư
ời thoát ra khỏi cái vòng đó
(D
ẫu) không sống trăm tuổi thì cũng đã là sống lâu (trường thọ) rồi.

Bùi Phạm Thành dịch thơ:


Rượu Tình Bài Nghiện bốn bức tường
Người người bị giữ ở trung ương
Ai m
à thoát khỏi vòng giam đó
Ch
ẳng sống trăm năm cũng thọ trường.

Thể Lục Bát:

ợu Tình Bài Nghiện là tường
Người người ai cũng bị giam ngay v
ào
Ai mà thoát kh
ỏi tường rào
Cũng là trư
ờng thọ dẫu nào trăm năm.

Tô Đông Pha xem xong viết một bài thơ bên cạnh rằng:


飲酒不醉是英豪,
戀色不迷最為高.
不義之財不可取,
有氣不生氣自消.

Ẩm tửu bất túy thị anh hào,
Luy
ến sắc bất mê tối vi cao;
Bất nghĩa chi t
ài bất khả thủ,
Hữu kh
í bất sinh khí tự tiêu.

Dịch nghĩa:

Uống rượu không say mới là người anh hào
Th
ấy sắc đẹp (mà) không mê thì mới là tay cao


(Th
ấy) tiền tài bất nghĩa (thì) không lấy (không nhận)
C
ó sẵn tính nghiện ngập nhưng không vướng vào (thì nó) tự mất đi.

Bùi Phạm Thành dịch thơ:


Rượu uống không say mới anh hào
S
ắc dục không mê ấy mới cao
Tiền t
ài bất nghĩa không thèm nhận
Nghiện ngập kh
ông vương tự tiêu hao.

Thể Lục Bát:


Anh hào uống rượu không say
Không mê s
ắc dục cao tay là người
Ham tiền cờ bạc kh
ông chơi
Nghi
ện ngập không vướng ắt thời tiêu tan.

Bài viết trên của Bùi Phạm Thành đã khiến tôi hào hứng “cái kiểu táy máy học hỏi” của riêng mình, bằng cách diễn ra ý tưởng vừa nẩy sinh trong đầu. Từ bài thơ đề trên tường của thiền sư Phật Ấn, tôi viết là:


Sắc bài rượu hút – tứ đổ tường
sống đời tục lụy chẳng ai kh
ông.
Ai vướng m
à thoát bốn vòng ấy
kh
ông sống trăm năm, cũng thọ khương.

Còn bài thơ của Tô Đông Pha thì tôi ứng đối rằng:


Rượu uống không say – mới hào hùng
yêu mà đừng đắm – rõ cao sang
tiền t
ài bất nghĩa không màng tới
nghiệp ngập
dứt rồi – tự thênh thang.

*

Sáng hôm chủ nhật 18 tháng 12- 2022, tôi nhuốm cảm lạnh từ sáng thứ bảy nên đành hủy bỏ mấy cuộc hẹn vui vầy cuối năm với bằng hữu. Bức bách nằm nhà, tôi tình cờ được theo dõi trận đấu giành chức vô địch bóng đá World Cup 2022: Đội Argentina tranh tài với đội Pháp gay go đá đến quá phút thứ 120 mà vẫn hòa 3-3, rồi cuối cùng Pháp thua ở lượt đá 5 quả phạt đền! Chưa bao giờ lại có một trận tranh đấu hào hứng đến như vậy.


Riêng tôi vẫn còn lưu luyến với khung cảnh “Tứ đổ tường” và cuộc đời, nên tôi liền viết thêm:


Làm người ắt biết tứ đổ tường
Sống đời tục lụy – cớ sao kh
ông!
M
ê mà đừng đắm chìm vô mãi
từng trải – vượt qua – ấy đời thường!

4. Tự nhủ

Hai tuần lễ nay, một trong vài người bạn thân thiết cùng tuổi của trên sáu mươi năm cuộc đời của tôi đã bỏ ra đi. Từng đêm, giấc ngủ của tôi luôn bị quấy rầy ba bốn lần; bao nhiêu nỗ lực trấn an mà tôi thường sử dụng lâu nay xem ra không còn hữu hiệu, tới độ tôi tự thấy rất ngạc nhiên, chẳng ngờ được tình trạng bất thường ấy lại có thể xẩy đến cho mình mạnh bạo như vậy...

Nhưng rồi, không biết tự bao giờ, âm điệu của những bản nhạc mùa Giáng Sinh trong các chương trình truyền hình bắt đầu nổi lên, vang xa, tràn lan ra ngoài đường phố, lọt vào tai tôi và len lỏi hòa với nhịp thở từng phút của tôi... khiến tôi rúng động:

Hãy cứ nhẹ nhàng đi với nhau
Sống đời gian kh
ó đã nát nhầu
vội v
àng hành hạ chi mãi thế
cho t
âm thanh thản – chẳng mong cầu.

Phạm Quốc Bảo

(19/12/2022)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.