Hôm nay,  

Ăn Noël nghe chuyện Giáng Sinh

24/12/202210:36:00(Xem: 3817)
Tạp ghi Giáng Sinh

Ông Già Noel

Mỗi năm, cứ tới ngày 24 tháng 12, trẻ con nao nức chờ ăn Noël. Noël đã trở thành lễ truyền thống, không còn chỉ dành riêng cho người Công giáo, mà cho cả mọi người ngày nay trên khắp thế giới. Ở những nước đang phát triển, Noël lại được đón tiếp tưng bừng hơn.

 

Lúc đầu, Noël không có cây thông, không có vòng hoa, không có Ông Già Noël, nhưng có một hài nhi sanh trong chuồng gia súc (bò, cừu). Vì Noël là lễ nhắc lại Đức Jésus sanh ra đời. Người Công giáo tin Jésus là con Trời.  Ngài tới đem ánh sáng chiếu khắp thế gian.

 

Ngày lễ Noël đầu tiên có lẽ được cử hành vào năm 336, tại Rome, nước Ý. Như vậy là trể so với ngày sanh 25 tháng 12 cả hơn 300 năm. Hoàng Đế La-mã Constantin vừa đổi qua Công giáo, ngài cho lịnh lấy ngày 25 tháng 12 làm lễ tưởng nhớ Đức Jésus sanh ra đời và vinh danh Ngài. Chọn ngày 25 tháng 12 vì cũng ngày này, hằng năm, từ trước giờ, người dân La-mã có tục lệ làm lễ « Thần Mặt Trời », « Sol Invictus ». Ngày này, đêm là dài nhứt của năm nên còn gọi là « Đông chí » (soltice d'hiver). Qua hôm sau, ngày bắt đầu dài hơn, có mặt trời nhiều hơn. Nhưng thực tế thì mặt trời và ngày dài ra rất chậm, với bước đi gần như còn đứng tại chỗ vậy. Nói theo mùa Noël thì « Đông chí » nhằm ngày 24 tháng 12 nhưng theo lịch thì ngày « Đông chí » thay đổi từng năm. Như năm nay 2022, « Đông chí » là ngày thứ tư 21 tháng 12. Năm tới 2023, «Đông chí» sẽ nhằm ngày thứ sáu 22 tháng 12.

 

Ông Già Noël có lẽ đã sanh ra cách nay phải lối 1700 năm. Tên của ông là Nicolas de Myre, một Giám mục người Thổ Nhĩ Kỳ giàu có. Ông có thói quen ban đêm đi phân phát quà và thức ăn cho những người nghèo khó.  Ông còn có nhiều tên khác nhau tùy địa phương, như Santa Claus, Father Christmas, Saint Nicholas, Saint Nick, Kris Kringle. Ông là một nhân vật huyền thoại có nguồn gốc từ văn hóa Cơ đốc giáo phương Tây. Với trẻ con, ông là người chuyên lập danh sách trẻ em trên khắp thế giới, phân loại chúng theo tốt xấu, giỏi ngoan... và tới ngày Noel, mang đồ chơi và kẹo bánh phân phát cho chúng. Có ông Già Noël dĩ nhiên phải có bà Già Noël, người phụ ông trong việc phát quà cho trẻ con. Nhưng bà Già Noël lại tới sau, trẻ hơn ông, bà vào lối 1100 tuổi.

 

Ăn lễ Noël ở mỗi nơi cũng khác nhau. Anh và Đức là hai nước láng giềng sát nước Pháp mà cách ăn Noël không giống Pháp tuy cùng theo Thiên chúa giáo.

 

Ăn Noël ở Anh

 

Noël vẫn là lễ lớn của nước Anh vì Anh không có Quốc khánh như Pháp hay lễ Độc lập như Hoa Kỳ. Noël được trọng thị như Quốc khánh của Anh vì Thiên chúa giáo là quốc giáo và vua nước Anh là Giáo hoàng. Ngày Noël, vua sẽ ban huấn từ, chúc điều lành cho dân chúng.  Cả nước sẽ được nghỉ lễ từ 2 tới 9 ngày tùy theo ngành nghề.

 

Năm nay, nước Anh, cũng như các nước Âu châu, bị lạm phát nặng. Nhiều gia đình cầm cự tới cuối tháng rất khó khăn. Năng lượng tăng giá quá cao, dân chúng và chánh phủ phải giới hạn dùng điện nên việc trang trí Noël năm nay không như những năm trước đây. Nhưng không vì vậy mà dân chúng nghỉ, không ăn Noël năm nay.

 

Noël ở Anh cũng là mùa bán hàng « sôn ». Họ bán « sôn » thật sự, hạ giá tới 70%, 80%, không như ở Pháp. Đây là cơ hội cho những người trước Noël không mua sắm được, nay mặc sức mua sắm Noël trễ vài ngày. Cả Tây đầm cũng chạy qua chen lấn mua sắm.

 

Xã hội có thay đổi chóng mặt nhưng Noël ở Anh vẫn giữ được những đặc tính truyền thống có từ thế kỷ XIX hoặc trước đó nữa. Như gởi thiệp chúc Noël, hát mừng Noël, trang trí lễ, cây thông, quà biếu, bữa ăn gia đình. Một nét đẹp nhất vẫn giữ là trong trường học công cũng như tư, cấp tiểu học, ngày Giáng Sinh được dựng thành kịch và học sinh diễn mừng Noël. Theo kết quả điều tra thì có tới hơn 1/3 dân chúng đặc biệt quan tâm tới sinh hoạt lễ này trong lúc đó chỉ có 3% hay 4% dân chúng đi lễ ở nhà thờ.

 

Người Anh ăn Noël không thể  thiếu cây thông tuy năm nay, các tổ chức Xanh, tổ chức bảo vệ môi trường phản đối trưng cây thông. Cây thông có nguồn gốc từ lễ hội dân gian xưa, trước khi có lễ Noël. Nó biểu hiện sự sống còn mà vẫn xanh tươi của vạn vật vào mùa đông giá lạnh. Có nơi cây thông Noël được hiểu là vật đem lại ánh sáng. Ở Pháp, ăn Noël lúc đầu không có cây thông vì bị Giáo hội cấm do cây thông được dân chúng thờ như Thần ánh sáng.

 

Ngày nay, cây thông đã trở thành « Cây Noël » từ nước Đức vào thế kỷ XVIII, nhất là thế kỷ XIX, bay qua Anh theo ông Hoàng Albert, chồng của nữ Hoàng Victoria. Cây thông từ đây trở thành nét truyền thống. Noël là phải có cây thông.Với phần lớn gia đình người Anh, Noël mà không có cây thông thì không phải là Noël. Nên mỗi làng xã, mỗi thành phố, mỗi khu phố, mỗi cửa hàng lớn nhỏ, đều có cây thông trang hoàng đèn đủ màu sắc lung linh tuyệt đẹp. Tại Luân đôn, ở Công trường Trafalgar năm nào cũng có một cây thông thiệt lớn, do Na Uy gởi cho, vẫn giữ tục lệ này từ năm 1947 cho tới nay!

 

Ngày Noël, người ta dậy sớm hơn vì đêm qua, ông Già Noël tới để quà cho trẻ con trong vớ hoặc giày bên cạnh lò sưởi hoặc cây thông. Ăn sáng xong, gia đình đưa nhau đi lễ ở nhà thờ và trở về để kịp ăn trưa vào lối từ 1 tới 2 giờ. Trong bữa ăn Noël truyền thống của người Anh không thể thiếu món gà tây dồn thịt và món pudding, thứ bánh ngọt đặc biệt của Anh. Hằng năm, vào tháng 11, người ta lo làm bánh pudding để chờ ngày Noël. Những gói quà sẽ được mở ra sau bữa ăn trưa. Hồi thế kỷ XIX, người ta chỉ mở quà qua ngày 26 vì ngày này là ngày Boxing Day, ngày của những gói quà. Ngày nay, những tập tục chính vẫn còn được gìn giữ cẩn thận. Tuy nhiên việc đi lễ lại kém thu hút dân chúng. Trong lúc đó vài thói quen mới xuất hiện như gia đình cùng coi phim, đi thăm bạn bè, đi dạo.

 

Noël ở Đức

 

Ở Đức, Noël phải có cây thông nhưng người ta sửa soạn cây thông vào trưa ngày 24 và cha mẹ tự tay trang hoàng cây thông trong lúc đó, TV chiếu 100% phim hoạt họa dành cho trẻ con 

để giữ chúng ngồi coi TV. Và chúng chỉ nhìn thấy cây thông khi những gói quà đã được để sẵn dưới gốc cây. Theo truyền thống Đức thì không phải ông Già Noël đem quà tới, mà chính là Jésus và Ngài bị ông Già Noël từ từ thay thế. Ngày Noël, bạn bè sẽ được mời tới vào giữa buổi trưa để dùng bánh ngọt, uống trà hoặc café.

 

Bữa ăn Noël ở Đức đơn giản, chỉ có xà lách, khoai. Có thể có thêm món xúp. Nhưng mọi người lại ăn bánh ngọt suốt cả ngày. Xong, kẻ đi nhà thờ, người đi ngủ. Qua ngày hôm sau, họ mới ăn vịt ngỗng hoặc cá. Khác hơn các nơi khác, ở Đức không có bánh buche (bánh ngọt kem hình khúc gỗ) và cũng không có foie gras (pâté gan ngỗng, vịt).

 

Noël ở  Pháp

 

Ở  Pháp, trước đây và cả ở Sài Gòn, do ảnh hưởng Pháp, từ trưa ngày 24 tháng 12, người Công giáo sẽ không ăn. Tới 12 giờ đêm, đi lễ nhà thờ xong, về nhà mới ăn Noël nên gọi là ăn Réveillon de Noël. Tục lệ này, ngày nay ở Pháp, cũng chỉ còn những gia đình xưa gìn giữ.  Ngày nay, Noël chỉ còn là ngày lễ hoàn toàn thế tục. Buôn bán, vui chơi. Người đi làm được nghỉ tuần thứ 5 có lương nên phần lớn lo đi về nhà quê, lên núi chơi ski hay nghỉ ngơi vì không khí trong lành. Do đó mà việc trang trí nhà cửa, có cây thông hay không, không còn quan trọng nữa.

 

Món foie gras (pâté gan vịt, ngỗng) năm nay không được mặn mà lắm vì trong năm bị dịch cúm. Thấy ít nơi bán tuy là món ăn truyền thống của Pháp. Chỉ còn rượu chát và Champagne là đầy đủ và có hạ giá chút đỉnh, hay không lên giá quá cao như nhiều thứ hàng khác. Một chai Champagne giá rẻ chỉ có 14€. Chai Champagne ngon vẫn phải từ 30€ trở lên và tùy mùa nho.

 

Ăn Noël, tưởng nên tới Pháp vì ăn ngon, bánh mì ngon và rượu ngon tuyệt! Cả 3 thứ này đã được UNESCO chính thức nhìn nhận là di sản phi vật thể của thế giới.

 

Đối thủ của Đức Jésus

 

Đồng thời với Đức Jésus, có một vị thần nữa, thần Mithra, gốc Ấn-Iran, tới từ phương Đông và được đông đảo dân La-mã tôn thờ. Nhưng tín ngưỡng này biến mất ba thế kỷ sau, do thiếu tài trợ và bị Đế quốc La-mã bài trừ. Có lẽ ảnh hưởng của thần Mithra lan rộng nhanh chóng mà nhà văn Renan, năm 1882, đã viết : « Người ta có thể nói nếu Thiên chúa giáo chẳng may đã mai một vì một thứ bịnh dịch nào đó thì thế giới có lẽ đã trở thành tín đồ của Mithra hết cả rồi ». Có thêm một ý nghĩ khác như những truyện hoang tưởng, làm chóng mặt, xúc phạm thần thánh: « Những người theo Mithra ở thế kỷ XXII sẽ đánh dẹp những người theo đạo vô thần, như cộng sản ». (Loạt truyện hậu tận thế, của Ridley Scott).

 

Những người theo thần Mithra bị nhiều người Thiên chúa giáo tấn công quyết liệt như gọi đó là thứ tà thần ác quỉ chỉ biết phỏng theo tín ngưỡng Thiên chúa giáo để kiếm bánh và rượu. Nhưng nếu người Thiên chúa giáo đã không thật sự sợ thần Mithra thì họ đã đào bới những cơ sở thờ tự của tín ngưỡng này rồi như họ đã làm đối với tôn giáo khác hồi thế kỷ IV.

 

Từ đầu thiên niên kỷ, những người Thiên chúa giáo đã từng đối đầu với nhiều đối thủ khác nhau vì dân La-mã thuở đó hăng hái đi tìm cho mình một nguồn sinh lực mới. Mà thần Mithra là một trong nhiều thần khác.

 

Những khát vọng về tâm linh thay đổi. Người ta tìm hiểu mối liên hệ thầm kín với thần linh. Theo tín ngưỡng đa thần xưa, tôn giáo sinh hoạt nhờ dựa trên một thứ qui ước giữa người và thần. Nhà sử học Pascal Capus ở Toulouse nhắc lại: « Tôi cúng thần một con dê, thần phải cho tôi một đứa con. Tôi cúng thần một cái bánh, thần phải giúp tôi buôn bán khá hơn. Thần có nhiệm vụ tổ chức thị xã và bảo vệ nhà vua ».

 

Thật ra tầm ảnh hưởng của thần Mithra không có gì lớn lao để cho người ta sùng bái như đối với đấng Christ. Thần Mithra sanh ra từ cục đá, dưới hình dạng một người đàn ông trưởng thành, cũng vào một ngày 25 tháng 12, ngày lễ hội Ánh sáng của dân chúng. Thần không có cha mẹ. Một vị thần mới hoàn toàn.

 

Thần Mithra từ thế kỷ IV được nhiều người tôn thờ, phải chăng vì ông cũng sinh nhằm đúng ngày Giáng Sinh của Thiên chúa?

 

-- Nguyễn thị Cỏ May

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.