Hôm nay,  

Trái tim mỗi người

11/01/202308:58:00(Xem: 3653)

Truyện

anh-tinh-yeu-tuoi-gia


Từ ngày gặp lại bà, ông cảm thấy mình trở lại tuổi thanh xuân tràn trề sinh lực. Trái tim ông đã đóng băng từ lâu, nay bỗng tan ra dưới nắng xuân hồng ấm áp dịu êm… Dường như ông không còn khái niệm về tuổi tác của ông và bà. Trong mắt ông, bà vẫn là cô gái ngày xưa, người yêu của ông cách đây hơn ba mươi năm.

 

Thật ra, cảm giác trên chỉ từ từ hình thành sau khi ông gặp bà năm bảy lần và giờ đây đã dần dần ổn định. Chứ hôm đầu tiên ngồi đối diện với bà, ông như không tin ở mắt mình. Em đấy ư? Ông quặn lòng khi nhìn vào đôi mắt bà không còn trong xanh như xưa. Và dù được chăm chút tô vẽ kĩ lưỡng vẫn hiện lên mờ mờ bàn chân chim ở phía đuôi. Hai gò má dù phủ lớp phấn dày, khá công phu vẫn không che giấu được những nếp nhăn và những đốm nâu lão hóa. Mái tóc được uốn gọn, khéo léo, sang trọng với thuốc nhuộm màu hạt dẻ vẫn để lộ ra những chân tóc thưa thớt và chắc đã có nhiều sợi bạc… Chưa bao giờ ông chứng kiến sức tàn phá ghê gớm của thời gian đến như vậy.

 

Đó là một buổi chiều Sài Gòn vừa dịu nắng. Sau khi đón bà từ sân bay Tân Sơn Nhất về một khách sạn mà ông đã đặt phòng trước cho bà, ông đưa bà đến quán cà phê. Ngồi đối diện với ông, bà có vẻ lúng túng vụng về, luôn tay vuốt tóc, không dám nhìn thẳng vào mắt ông. Ông dịu dàng âu yếm nhìn bà, như muốn trấn an bà về điều gì đó mà ông chưa rõ… Nhưng rồi không hiểu sao sau đó, những nét già trên khuôn mặt bà dần dần trẻ lại. Như một phép màu. Và giờ đây bà dường như trở lại  hình ảnh cô gái ngày xưa, người ông đã từng yêu thương và mãi mãi yêu thương nhưng đã không cùng bà nên duyên vợ chồng bởi số phận trớ trêu.

 

Từ ngày gặp lại ông, bà cũng cảm thấy mình trẻ hẳn ra, nhẹ nhàng nhanh nhẹn năng động lên gấp bội. Như loài mai ủ rũ héo hon suốt mùa đông tưởng chừng không còn sức sống, bỗng một sáng xuân, người ta tỉa cành ngắt lá cho mai tích nhựa vào thân, người ta tưới nước tràn trề để mai nhú ra bao nhiêu là mầm là nụ. Tất cả đều xanh mượt, căng tròn , mũm mĩm… Cũng như ông , bà dần dần mất đi khái niệm tuổi tác. Bà thấy mình trở lại tuổi đôi mươi. Tâm hồn vui phơi phới. Mắt bỗng sáng long lanh. Môi bỗng đỏ mọng và má bỗng ửng hồng.  Cái nắm tay đầu tiên sau bao năm xa cách làm bà nghe như có luồng điện chạy dài từ đỉnh đầu tới gót chân. Và cái nhìn của ông, cái nhìn quen thuộc gần gụi thân thiết, hiền từ bao dung chở che, nồng nàn ấm áp chân thành, chứa chan cảm thông yêu thương trìu mến… khiến bà nao cả lòng.

 

Cũng như ông, lần đầu tiên gặp lại ông, bà vô cùng kinh ngạc! Mái tóc ông đã bạc trắng. Đôi mắt đã sậm màu mỏi mệt sau cặp kính lão. Hình dáng, bước chân… đều thay đổi. Lúc đó bà muốn khóc quá chừng nhưng kìm lại được. Bà chợt nghĩ tới mình , hẳn bà cũng già đi nhiều lắm? Chắc chắn rồi! Chính điều nầy làm bà bối rối. Cũng may, quán cà phê vườn đang nhạt nhòa dần trong khoảnh khắc hoàng hôn, che bớt dùm bà những bước chân khắc nghiệt tàn nhẫn của thời gian. Bà khôn ngoan ngồi khuất trong bóng tối của chậu nguyệt quế, tìm lại được sự tự tin.

 

Hóa ra thời gian giống như bụi bặm, nó ẩn khuất, tiềm tàng trong từng hạt không khí nên có thể luồn lách khắp mọi nơi. Đồ đạc dù được che chắn kĩ càng đến cỡ nào, nó vẫn len lỏi vào được.

Họ nhìn nhau rưng rưng ngậm ngùi.

 

– Em về chơi được bao lâu ? Ông đã biết nhưng vẫn cứ hỏi để cả hai bớt lúng túng.

 

– Em tính ở lại hai tháng. Bà mỉm cười trả lời câu đã thuộc lòng.

 

– Em sẽ ăn Tết ở đâu?

 

– Có thể em về Hội An.

 

– Tại sao lại có thể?

 

– Vì  tới giờ phút nầy em cũng chưa có quyết định dứt khoát. Em có nhiều nơi để đến và về nhưng chỗ nào thú vị nhất thì em chưa nghĩ ra.

 

Câu chuyện cởi mở dần … Bao kỉ niệm êm đềm hạnh phúc của một thời tuổi trẻ được đánh thức. Có lẽ thần ái tình thấy tội nghiệp họ, biết không cần phải bắn thủng tim của họ nữa mà chỉ nên tặng mỗi người một đôi hài có mũi sau gót chân để họ đi ngược lại thời gian. Quá khứ giúp họ tìm lại tuổi xuân nồng nhiệt tự nhiên. Tình xưa giúp họ vượt qua ranh giới hiện tại.

 

Họ tìm lại được nhau thật tình cờ như nhiều cái tình cờ vẫn thường xảy ra trong cuộc sống. Tại một tiệc cưới, ông tình cờ ngồi gần một bà mập mạp. Ông liên tục tiếp thức ăn cho bà, rất lịch sự. Đáp lại nồng hậu của ông, bà cũng liên tục tiếp thức ăn cho ông. Chuyện đông chuyện tây, chuyện cổ chuyện kim, chuyện trên trời dưới đất, bà cứ say sưa khiến người ngoài tưởng họ là đôi bạn thân thiết từ lâu hoặc có thể còn hơn thế nữa. Sự nhiệt thành quá mức của bà đôi lúc làm ông bối rối ngượng nghịu. Nhưng cũng nhờ vậy mà bà nhắc đến tên Cẩm Tú Cầu. Ông giật mình. Cái tên hiếm gặp, cái tên vẫn nằm sâu trong một ngăn tim kín đáo nhất của ông. Qua vài thông tin ngắn gọn, ông chắc chắn đây là Cẩm Tú Cầu của lòng ông. “Anh biết chị ấy ư? Anh muốn liên lạc không ? Tui có số phone của chỉ nè!” Ông run run ghi. Rồi ông là người trong bàn đứng dậy đầu tiên sau lời xin lỗi nhã nhặn.

 

Ông nhanh chân về nhà. Bấm dòng số dài ngoằng, ông cẩn trọng dò đi dò lại rồi mới nhấn nút gọi. Tiếng chuông bên kia đầu dây đổ dài. Ông hồi hộp, hơi thở ngắn và cạn. Hình như khá lâu mới có người cầm máy: “Hello!” Giọng nam. Ông giật thót tim: “A lô A lô! Có phải nhà Cẩm Tú Cầu đó không ạ?” “Cẩm Tú Cầu?…” “Vâng, làm ơn cho tôi gặp Cẩm Tú Cầu!” Một thoáng im lặng… “À… À… Đó là mẹ tôi, nhưng có gì quan trọng mà ông gọi vào giờ nầy?” “Tôi từ Việt Nam…” “ OK! ông chờ máy nhé!” Sực nhớ ra giờ nầy bên ấy, ông ngại ghê nhưng việc đã lỡ.

Giọng bà lạ huơ lạ hoắc, phải tới hơn mươi phút sau ông mới tìm lại được âm sắc quen thuộc của bà. Sau mấy lời thăm hỏi, bà nhắc: “Stop nghen! Mai em sẽ gọi lại cho anh.” Cũng từ hôm đó, cứ cách vài ngày, ông chưa kịp gọi cho bà thì bà đã gọi về cho ông. Hai ông bà cứ vậy mà say sưa bao nhiêu là chuyện. Con gái ông ngạc nhiên và mừng lắm khi thấy cha mình độ rày mặt mày cứ hớn ha hớn hở, thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình.

 

Càng nói chuyện qua điện thoại, họ càng khao khát được gặp nhau. Bàn tới bàn lui, bà quyết định về Việt Nam ăn Tết. Họ hồi hộp. Sung sướng. Náo nức. Mong chờ.

 

Ngày bà về, dù đã chuẩn bị kĩ tinh thần trước đó nhưng có lẽ ông sẽ rất khó nhận ra bà nếu bà không cho trước dấu hiệu, bởi đâu còn hình dáng mảnh mai của cô thiếu nữ ngày nao.

 

Trong bữa ăn sáng ở một quán phở, ông dè dặt:

 

– Hay là… chúng ta cùng đi du lịch dịp Tết nầy …

 

Bà háo hức:

 

– Đi đâu vậy anh?

 

– Hà nội, Huế… Nha Trang, Đà Lạt…

 

Bà cầm tay ông lắc lắc, hệt ngày xưa, giọng nũng nịu:

 

– OK!… Nhưng anh sẽ ăn nói với bọn nhỏ như thế nào?

 

Ông âu yếm nhìn bà:

 

– Em yên tâm. Anh đã sắp xếp mọi chuyện.

 

Rồi họ bên nhau trong một khách sạn ở Đà Lạt. Họ hoàn toàn bất ngờ về chính mình và bất ngờ về nhau. Ông mãnh liệt, cuồng nhiệt, tận tình quá đỗi. Bà đậm đà, nồng nàn, lãng mạn xiết bao. Thì ra… Cuộc đời đẹp quá! Đáng yêu quá! Ông lắng nghe sức sống trào dâng trong từng mạch máu, từng tế bào. Hừ, phen nầy ông quyết tâm mai mốt về nhà, sẽ lên kế hoạch chăm sóc kĩ hơn cho sức khỏe của mình, điều mà bấy lâu nay ông chưa bận tâm đúng mức. Ông sẽ đi tập dưỡng sinh. Mỗi chiều, ông sẽ chơi tennis thêm một tiếng nữa. Sẽ đặc biệt chú ý chế độ ăn uống, sẽ bỏ thuốc lá… Chưa bao giờ ông có được hạnh phúc nầy, yêu và được yêu, hết lòng hết dạ. Ông tận hưởng cảm giác quá đủ, thậm chí có thể nói là tràn trề... Ông dạt dào cảm xúc hàm ơn bà, người đã cho ông được hồi sinh, giúp ông thấm thía tận cùng niềm hạnh phúc được làm người trần thế. Bà là tất cả cho phần đời còn lại của ông. Ông thầm hối tiếc, giá như ông bà gặp nhau sớm hơn. Thật quá lãng phí!

 

Đà Lạt se lạnh. Trong tấm mền dày cộm ấm áp cùng hơi ấm tỏa ra từ thân thể ông, bà cảm thấy mình bé bỏng và nhẹ thênh. Vậy thì bà còn cần gì nữa? Ở tuổi nầy, bà thực sự đang yêu và thực sự được yêu ư? Bà đang ở trong cõi thực ư? Đến bây giờ, bà mới nhận ra tình yêu là điều có thực mà cả quảng đời đã qua bà luôn nghi ngờ. Trái tim bà rộn rã ngân nga những giai điệu xuân thì. Nhà cửa, xe cộ, tiền bạc bà phải vật lộn, đổ mồ hôi, lao đao lận đận bon chen mấy chục năm qua ở xứ người bỗng trở nên vô nghĩa phù phiếm! Ừ, hết thảy chẳng là gì cả! Bà đang hạnh phúc. Hạnh phúc quá lớn quá lạ và quá bất ngờ khiến bà như đang sống trong giấc mơ đẹp nhất đời. Bà đang trôi bồng bềnh bồng bềnh trong đám mây hư thực, thực hư…Và điều chắc chắn như đinh đóng cột là bà chẳng hề phí công khi vượt qua nửa cái hành tinh xanh đáng yêu nầy để bây giờ có ông bên cạnh.

 

Rồi họ say sưa háo hức bàn chuyện tương lai. Họ tin cuộc hạnh ngộ nầy là thiên duyên bởi tất cả diễn ra như có sự sắp xếp hợp lý: Ông bà đều trong cảnh góa bụa, quan trọng hơn nữa là ngày xưa họ đã từng là người tình sâu đậm của nhau. Giờ đây họ thật lòng khao khát được có nhau, nương tựa nhau trong khoảnh đời còn lại. Bà sẽ về Việt Nam. Họ sẽ xây một ngôi biệt thự … Họ sẽ an nhàn tận hưởng mùa xuân đang trở lại…

 

*

 

Thế nhưng sau khi nhận cú điện thoại của bà từ Mỹ, báo tin chuẩn bị tiến hành thu xếp mọi việc để về nước, ông bỗng đắn đo băn khoăn. Bao nao nức ước ao cùng bà chung sống bỗng lắng xuống. Những ngọn sóng cuồn cuộn dữ dội đã từng nhào lộn tung hứng ngoài khơi giờ đang rất đỗi hiền lành, nhẹ nhàng vỗ vào bờ.

 

Có nên chăng?

 

Xưa nay ông quen sống một mình trên tầng lầu. Một mình nên tha hồ thích làm gì thì làm. Tới bữa, nếu muốn ăn cùng vợ chồng đứa con gái thì ông xuống tầng dưới . Còn không, ông gọi điện thoại kêu con Đẹt bưng lên. Ông ăn mặc tùy tiện, thường cứ quần xà lỏn, áo may- ô, mát mẻ thoải mái. Muốn ngồi muốn nằm ở tư thế nào cũng được. Muốn tắm hay muốn ở dơ tùy thích… Chiều, sau khi ở sân tennis về, ông cùng mấy người bạn ngồi khề khà vài lon bia, nói chuyện tào lao tào đế chơi. Tối, ăn cơm xong, ông nằm khềnh ra tấm nệm trải trên sàn nhà, dang rộng tứ chi hết cỡ cho đỡ mỏi. Rồi mở TV xem. Dễ chịu khoan khoái không thể tả hết!

 

Nhưng nếu ở với bà, ông có còn được tự do như vậy nữa không? Chao ôi! Bao nhiêu là thói quen sống của ông. Những thói quen dễ chịu. Những thói quen như những nếp li trên quần áo đã chết cứng theo thời gian, khó lòng ủi thẳng ra được. Ông e ngại, nếu sống với bà, liệu bà có chấp nhận? Hay cuộc sống của ông sẽ bị đảo lộn? Hay suốt ngày ông lại phải chịu đựng những tiếng kèo nhèo kẻo nhẻo, than thân trách phận, day dứt rỉa rói ông thế nầy, ông thế nọ? Mấy ngày ở cùng bà, lúc nào ông cũng phải để ý đến bản thân mình từng li từng tí, nào phải dậy sớm, nào phải giữ mình sạch sẽ thơm tho… Nhiều cái “phải” lắm. Hưng phấn thì cũng có vì tất cả đều lạ lẫm thú vị, nhưng cứ “phải” như vậy suốt cả phần đời còn lại thì mệt thật chứ chẳng chơi!

Rồi trong mọi sinh hoạt khi chung sống, ông luôn phải chiều chuộng bà! Những ngày ông bà bên nhau vừa qua là những ngày mới mẻ sau bao nhiêu năm xa cách. Là người tình của nhau. Là khách của nhau. Thêm nữa, ông đã cố gắng đối đãi với bà theo cách bà là một phụ nữ ở Mỹ, một đất nước “lady first” – mọi ưu tiên dành cho phụ nữ. Nhưng nếu cứ phải như vậy thì coi bộ gay go quá! Rồi họ sẽ phải trở về cuộc sống đời thường với bao điều vụn vặt. Là vợ chồng, họ sẽ có những va chạm, trách móc, giận hờn. Mà đó là điều ông không hề muốn. Ông thích hình ảnh mình mãi đẹp trong mắt bà, mãi là một “gentleman” thực sự. Muốn vậy, họ không nên sống với nhau khi cả hai đã cùng có tuổi. Sức khỏe không còn đủ để họ luôn cố gắng làm đẹp lòng nhau. Đúng vậy, muốn làm đẹp lòng nhau cũng cần khỏe mạnh. Vậy thì ông tìm cách chung sống với bà để làm gì? Còn nữa, rồi khi về già bà sẽ yếu đau quặt quẹo... Ôi, nghĩ tới đây ông thở ra ngao ngán đồng thời cũng tự vấn lương tâm mình. Nhưng biết làm sao bây giờ? Đồng ý là bà có thừa tiền để mướn người chăm sóc. Đồng ý là ông thừa của thừa lòng để không tiếc gì với bà nhưng nghĩ tới nghĩ lui ông thấy nhọc nhằn quá! Liệu ông đủ sức để kham?

 

Phần ông, sống một mình thật đơn giản. Đau ốm ư? Hai đứa con ông đều ngoan, đều hiếu thảo. Trong khi đó, các bệnh viện cao cấp cứ mọc lên như nấm, muốn được chăm sóc cỡ nào cũng có. Sợ gì!

Và chắc chắn không ít người sẽ xì xầm, già rồi mà còn bày đặt te rẹt! Hoặc tệ hại hơn nữa là họ lầm tưởng ông lấy bà vì bà là một Việt kiều khá giả. Làm sao họ tin được ông và bà, chưa chắc ai giàu hơn ai? Ái chà, đủ thứ chuyện! Càng nghĩ càng rối tung lên mà ông thì mệt mỏi biếng nhác lắm rồi. Giờ đây ông chỉ còn muốn nâng niu chắt chiu tình yêu của ông và bà trong trái tim để lấy đó làm niềm vui sống.

 

Ông suy nghĩ cân nhắc tới lui. Xác định kỹ càng độ nông sâu tình cảm của ông dành cho bà. Đau đớn thở dài. Đành vậy thôi em ơi! Chúng ta chẳng còn sống được bao lâu nữa. Thôi thì hãy yên phận cho khỏe cái thân già. Thế là ông quyết định phải phone gấp cho bà, sẽ viện một cớ gì đó để không xúc phạm và đau lòng bà. Có lẽ chuyện sức khỏe của ông là hợp lý nhất.

 

Nhưng ông chưa kịp gọi cho bà thì bà đã gọi về. Giọng bà nhỏng nhẽo trẻ con, chứa chan niềm vui sướng: “Hello anh yêu, anh khỏe không? ” “A lô! Anh tàm tạm. Còn em?”

 

Khỉ thiệt, đường dây điện thoại bữa nay sao kì cục quá! Mỗi câu nói của ông ngay sau đó liền bị vang lại giống y như tiếng vọng trong hang đá. Tiếng của bà thì có lúc bị rè rè, có lúc trở nên léo nhéo. Ông cứ phải kêu lên: “Em nhắc lại coi. Anh nghe không rõ!” Rồi ông phải căng tai, đoán tới đoán lui mới hiểu được ý bà. Thiệt khổ hết chỗ nói! Bà cũng than giọng ông nhỏ. Thế là hai ông bà cứ phải vừa hét to, vừa hello, à lố, á lồ liên tục. “Sao lại tạm được? Anh phải khỏe chứ, nếu không em bắt đền đó. Em ấy à, good lắm! Thử gởi cho em một chiếc que tăm và một viên cuội nhỏ, em sẽ bẫy trái đất lật ngược lại, tụi mình đứng bên nhau cho xem. Con trai em OK chuyện tụi mình rồi. Nó nói hễ mẹ hạnh phúc là con vui…”

 

Ông thở khó nhọc “Alô! Cẩm Tú Cầu em ơi! Khoan đã, nghe anh nói nè… Á  lô… A lố… Anh đã suy nghĩ lại, anh thấy…” Ông vừa nói được điều cần thiết thì đường dây lại trục trặc. Dù vậy ông cũng kịp nghe bà sụt sịt, giọng nghẹn ngào. Ông hoảng hốt, cố gắng giải thích rõ hơn, nhưng cái đường dây điện thoại chết tiệt kia hình như không chuyển tải được. Ông cứ phải gào to lên. Mãi lát sau ông mới biết bà đã gác máy tự lúc nào.

 

Nhìn trân trân cái điện thoại, ông chờ đợi phép lạ nhưng phép lạ không đến. Rồi ông bấm máy gọi điên cuồng. Trả lời ông là tiếng tít tít ngắn liên tục chết tiệt! Lòng ông thắt lại vì lo âu sợ hãi. Bà đang khóc, hẳn thế. Ông tin rằng với chừng tuổi nầy đương nhiên bà sẽ không nông nổi làm điều dại dột. Nhưng bà sẽ đau buồn rồi sinh bịnh. Ông xốn xang thương bà, tự ghét mình, tự đấm ngực mình. Ân hận. Tuyệt vọng. Ôi! Ông vừa chà đạp lên niềm kiêu hãnh sâu xa của người phụ nữ. Ông đã làm trái tim yêu thương của ông bị vỡ nát. Giọng bà cứ văng vẳng bên tai ông: “Em ấy à, good lắm! Thử gởi cho em một chiếc que tăm và một viên cuội nhỏ , em sẽ bẫy trái đất lật ngược lại, tụi mình đứng bên nhau cho xem”. Trời ơi!

 

Chút hi vọng chợt le lói trong ông. Có thể bà bỏ qua cho ông? Ông sẽ viết thư cho bà, rằng sở dĩ ông đã nói như vậy vì không muốn bà phải hi sinh cho ông nhiều quá. Rằng thực ra ông rất yêu bà, luôn muốn sống với bà. Rằng bà là vật báu của ông. Rằng ông luôn mong mỏi sẽ được sống mãi bên bà trọn kiếp.

 

Rất có thê bà sẽ tha thứ cho ông vì bà vốn là người hiền lành nhu mì, lại thương yêu ông hết mực. Nghĩ là làm ngay. Ông hăm hở chạy đi lấy giấy bút. Sau vài tiếng đồng hồ ngồi cắm cúi viết, ông đứng dậy đi tới đi lui. Tờ giấy chi chít những dòng chữ bị gạch xóa đến tội tình. Không! Ông vẫn còn chừa lại hai chữ “thói quen”. Hai chữ nầy thực ra cũng đã bị bôi đi bôi lại nhiều lần nhưng cuối cùng ông lại viết chồng lên, nắn nót, tô đậm lên, to và rõ. Rồi khoanh tròn nó lại. Mệt mỏi, ông ngồi phịch xuống sàn nhà, hai tay ôm đầu rên rỉ. Lại nghe giọng bà văng vẳng bên tai: “Em ấy à, good lắm! Thử gởi cho em một chiếc que tăm và một viên cuội nhỏ, em sẽ bẫy trái đất lật ngược lại, tụi mình đứng bên nhau cho xem. ..”

 

Xấu hổ khi thấy rõ bản thân mình, khi nghĩ tới tấm chân tình của bà, ông muốn gào to lên cho trút hết nỗi niềm.

 

Trời ơi đất hỡi! Ông không thể phủ nhận điều sâu kín từ trái tim ông, rằng ông yêu bà, yêu bà tha thiết. Cả đời ông chỉ có yêu bà thôi mà!

 

Cẩm Tú Cầu ơi, anh yêu em vô cùng. Em có biết không em?

 

– Trương Thị Kim Chi




Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.